Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm phát triển du lịch sinh thái bền vững cho Vườn quốc gia Ba Vì - Hà Nội - 2


ĐẶT VẤN ĐỀ‌


Ngày nay, DLST được quan tâm của các cấp, các ngành trong bối cảnh phát triển du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn và càng trở nên quan trọng hơn khi du lịch trở thành chiến lược của quốc gia và được nhiều người biết đến.Các Vườn quốc gia (VQG) và khu bảo tồn thiên nhiên khu (BTTN) là nơi tập trung đa dạng sinh học cao, trong đó có nhiều loài động - thực vật đặc hữu, quý hiếm và có khả năng hấp dẫn du khách. Các cộng đồng dân cư địa phương sinh sống trong khu vực các VQG đều có những giá trị văn hóa bản địa độc đáo và mang những đặc sắc riêng đây là những thuận lợi cho việc phát triển loại hình DLST.

Bên cạnh đó, có một thực trạng rằng các khu Bảo tồn và Vườn quốc gia đang thực hiện xây dựng và phát triển nhiều loại hình du lịch sinh thái, với mục đích chính bảo tồn ĐDSH và phát triển môi trường sinh thái, đồng thời tạo sinh kế bền vững cho người dân địa phương. Song công tác phát triển du lịch sinh thái ở đây chưa mang lại hiệu quả cao, chỉ mang tính hình thức, do chưa đánh giá đúng thực trạng tiềm năng khu vực, nhu cầu của địa phương cũng như nhu cầu của khách tham gia.

VQG Ba Vì là nơi giàu tiềm năng có thể phát triển thành trung tâm du lịch của cả nước. Tuy nhiên, hiệu quả chưa được khai thác đúng mức, việc tổ chức các hoạt động du lịch chưa được đồng bộ, nguồn nhân lực và tài chính còn hạn chế, cơ sở vật chất chưa đáp ứng được nhu cầu khách tham quan. Việc phát triển chỉ tập chung ở việc khai thác mà chưa quan tâm đến phát triển bền vững. Đã có một số nghiên cứu trước đó nhằm tìm kiếm những giải pháp phát triển du lịch cho khu vực này. Cụ thể như “Bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển du lịch sinh thái bền vững ở VQG Ba Vì và vùng đệm trong nền kinh tế thị trường” -Nguyễn Đức Hậu (2006), “Một số giải pháp phát triển du lịch sinh thái và bảo tồn vườn quốc gia Ba Vì và vùng phụ cận - Vũ Đăng


Khôi (2004), song các đề tài chỉ dừng ở đánh giá việc khai thác và mô hình quản lý mà chưa đề cập đến thực trạng du lịch sinh thái của VQG Ba Vì cũng như đưa ra các yếu tố tác động du lịch sinh thái như: xác định hiệu quả kinh tế, xã hội, ước lượng lượng rác thải ra hàng ngày, các tác động đến cảnh quan sinh thái, thuận lợi, khó khăn, thời cơ và thách thức để từ đó có các giải pháp phát triển du lịch sinh thái bền vững cho VQG Ba Vì.

Để góp phần phát triển du lịch sinh thái bền vững, giải quyết các vấn đề mà những nghiên cứu trước đó còn tồn tại, phát triển tiềm năng du lịch sinh thái bền vững cho VQG Ba Vì tôi đã tiến hành tham khảo ý kiến và thực hiện đề tài nghiên cứu “Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm phát triển du lịch sinh thái bền vững cho Vườn quốc gia Ba Vì - Hà Nội


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.

Chương 1

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU‌

Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm phát triển du lịch sinh thái bền vững cho Vườn quốc gia Ba Vì - Hà Nội - 2

1.1. Các khái niệm‌

1.1.1. Khái niệm về du lịch sinh thái‌

Từ những năm đầu thế kỷ 19, khái niệm du lịch sinh thái xuất hiện với hàm ý mọi hoạt động du lịch có liên quan đến thiên nhiên như tắm biển, nghỉ mát, leo núi…đều gọi là du lịch sinh thái. Đến nay, khái niệm về du lịch sinh thái đã có sự phát triển với hàng chục cách hiểu khác nhau.

Năm 1987, một định nghĩa hoàn chỉnh về du lịch sinh thái đã được Hector Ceballos - Lascurain lần đầu tiên đưa ra: Du lịch sinh thái là du lịch đến những khu vực tự nhiên còn ít bị thay đổi với những mục đích đặc biệt như: Nghiên cứu, tham quan với ý thức trân trọng thế giới hoang dã và những giá trị văn hoá được chấm phá. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của thực tiễn, nhận thức về khái niệm du lịch sinh thái cũng dần dần được hoàn thiện mà sự thay đổi quan trọng về nội dung của khái niệm này là từ chỗ coi du lịch sinh thái là loại hình du lịch ít tác động đến môi trường tự nhiên sang việc gắn trách nhiệm của du lịch sinh thái với môi trường, có tính giáo dục, đóng góp tích cực cho bảo tồn đa dạng sinh học, đồng thời đảm bảo lợi ích cho cộng đồng địa phương.

Theo chương trình du lịch sinh thái của IUCN thì: Du lịch sinh thái là loại hình du lịch và tham quan có trách nhiệm với môi trường tại những vùng còn tương đối hoang sơ, để thưởng thức và hiểu biết thiên nhiên (có kèm theo các đặc trưng văn hoá - quá khứ cũng như hiện tại) có hỗ trợ đối với bảo tồn, giảm thiểu tác động từ du khách, đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của nhân dân địa phương.

Ở Việt Nam, tại cuộc hội thảo quốc gia bàn về: “Xây dựng chiến lược phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam” từ ngày 7 - 9/8/1999 Tổng cục Du lịch


Việt Nam, ESCAP, WWF, IUCN đã đưa ra định nghĩa về DLST ở Việt Nam, theo đó: Du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hoá bản địa, gắn với giáo dục môi trường, có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững, với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương.

Năm 2006, Lê Huy Bá cũng đưa ra khái niệm về du lịch sinh thái “DLST là một loại hình du lịch lấy các hệ sinh thái đặc thù, tự nhiên làm đối tượng để phục vụ cho những khách du lịch yêu thiên nhiên, du ngoạn, thưởng thức những cảnh quan hay nghiên cứu về các hệ sinh thái. Đó cũng là hình thức kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế du lịch với giới thiệu về những cảnh đẹp của quốc gia cũng nhờ giáo dục tuyên truyền và bảo vệ, phát triền môi trường và tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững”. Có thể hiểu DLST là du lịch có trách nhiệm với các khu thiên nhiên, là công cụ để bảo tồn môi trường và cải thiện phúc lợi cho nhân dân địa phương.

1.1.2. Những đặc điểm, đặc trưng của du lịch sinh thái‌

1.1.2.1. Đặc điểm du lịch sinh thái

Theo tổ chức du lịch thế giới, du lịch sinh thái có những đặc điểm cơ bản sau đây:

Thứ nhất: Du lịch sinh thái bao gồm tất cả các loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên, trong đó mục đích chính của khách du lịch là tham quan tìm hiểu về tự nhiên, tìm hiểu khám phá những giá trị văn hoá truyền thống ở các khu du lịch.

Thứ hai: Du lịch sinh thái bao gồm những hoạt động giáo dục, tuyên truyền về môi trường sinh thái.

Thứ ba: Du lịch sinh thái hạn chế tối đa những tác động tiêu cực đến môi trường, văn hoá, xã hội.

Thứ tư: Du lịch sinh thái hỗ trợ cho hoạt động bảo tồn tự nhiên thông qua việc tạo ra lợi ích kinh tế, tạo việc làm và thu nhập cho cộng đồng dân cư,


nâng cao nhận thức, hiểu biết về bảo tồn đa dạng sinh học và các giá trị tự nhiên khác cho du khách và người dân bản địa.

1.1.2.2. Đặc trưng của du lịch sinh thái

Đặc trưng thứ nhất: Du lịch sinh thái mang tính đa ngành

Tính đa ngành của du lịch sinh thái thể hiện ở 2 góc độ sau:

- Đối tượng được khai thác để phục vụ các hoạt động du lịch sinh thái là rất đa dạng và liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực như: cảnh quan tự nhiên, các giá trị lịch sử, văn hoá, cơ sở hạ tầng và các dịch vụ kèm theo.

- Du lịch sinh thái mang lại nguồn thu cho nhiều ngành kinh tế khác nhau thông qua các sản phẩm dịch vụ cung cấp cho khách du lịch (điện, nước, nông sản, hàng hoá…)

Đặc trưng thứ 2: Thành phần tham gia du lịch sinh thái rất đa dạng

Thực tế cho thấy có nhiều cá nhân, nhiều tổ chức chính phủ, phi chính phủ và cộng đồng tham gia các hoạt động du lịch sinh thái. Nhiều thành phần tham gia làm cho việc tổ chức, quản lý các hoạt động du lịch sinh thái phức tạp, đòi hỏi phải có sự kết hợp hài hoà giữa các thành phần với nhau.

Đặc trưng thứ 3: Du lịch sinh thái hướng tới nhiều mục tiêu

Du lịch sinh thái không chỉ nhằm mục đích thu lợi nhuận giống như các ngành kinh doanh khác mà còn nhằm góp phần bảo tồn thiên nhiên, các cảnh quan lịch sử - văn hoá, nâng cao chất lượng cuộc sống của du khách và những người tham gia các hoạt động du lịch, mở rộng sự giao lưu văn hoá, kinh tế và nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cộng đồng về đa dạng sinh học, phát triển bền vững.

Đặc trưng thứ 4: Du lịch sinh thái mang tính mùa vụ

Các hoạt động du lịch sinh thái không phân bố đều trong năm mà tập trung với cường độ cao trong những khoảng thời gian nhất định trong năm: Các loại hình du lịch nghỉ biển, leo núi, tìm hiểu tập tính động vật (Quan sát


chim di cư, quan sát bướm, cá heo,...) theo mùa (theo tính chất khí hậu, mùa di cư, xuất hiện của động vật) thể hiện rất rõ tính mùa vụ.

Đặc trưng thứ 5: Du lịch sinh thái có tính liên vùng

Các hoạt động du lịch sinh thái thường không chỉ diễn ra ở một địa phương, một khu vực mà có sự liên thông giữa các điểm du lịch trong một khu vực, các vùng và giữa các quốc gia với nhau.

Đặc trưng thứ 6: Chi phí

Du khách tham gia du lịch sinh thái nhằm hưởng thụ các sản phẩm du lịch chứ không phải với mục đích kiếm tiền. Họ sẵn sàng bỏ ra các khoản chi phí cho chuyến du lịch, nhắm khám phá cảnh quan thiên nhiên kỳ thú, môi trường hấp dẫn, bản sắc văn hoá bản địa độc đáo....

Đặc trưng thứ 7: Xã hội hoá các hoạt động du lịch

Du lịch sinh thái thu hút nhiều người, nhiều tổ chức kinh tế, xã hội, cộng đồng trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia hoạt động du lịch. Lợi ích do du lịch sinh thái mang lại được được xã hội hoá rộng rãi. Nhiều ngưòi, nhiều tổ chức, cộng đồng được hưởng lợi từ du lịch sinh thái.

Đặc trưng thứ 8: Giáo dục nhận thức về môi trường

Du lịch sinh thái giúp con người tiếp cận gần hơn nữa với các vùng tự nhiên và các khu bảo tồn, nơi có giá trị cao về đa dạng sinh học và nhạy cảm về môi trường. Qua các hoạt đông du lịch sinh thái, nhận thức của khách du lịch, của người dân, cộng đồng dân cư về đa dạng sinh học và môi trường được nâng cao.

Đặc trưng thứ 9: Bảo tồn các tài nguyên thiên nhiên và duy trì tính đa dạng sinh học

Du lịch sinh thái bao gồm cả hoạt động giáo dục, nâng cao nhận thức và hình thành ý thức bảo vệ môi trường sinh thái cho khách du lịch, những người tham gia các hoạt động du lịch. Qua đó, thúc đẩy các hoạt động bảo vệ môi trường, tăng cường nguồn lực duy trì và bảo tồn đa dạng sinh học.


Đặc trưng thứ 10: Sự tham gia của cộng đồng địa phương

Sự tham gia của cộng đồng là một đặc trưng cơ bản của du lịch sinh thái. Cộng đồng địa phương với tư cách là chủ sở hữu các nguồn tài nguyên thiên nhiên nên sự tham gia của cộng đồng vào du lịch sinh thái có ý nghĩa quan trọng. Một mặt, sự tham gia của cộng đồng mang lại sự phong phú, đa dạng của du lịch sinh thái trên cơ sở phát huy các giá trị văn hoá, lịch sử của địa phương, mặt khác tăng thêm khả năng quản lý, bảo tồn các nguồn tài nguyên.

1.1.3. Những điều kiện cần thiết để phát triển du lịch sinh thái‌

Muốn phát triển du lịch sinh thái cần phải có những điều kiện sau đây:

Tồn tại các hệ sinh thái có tính đa dạng sinh học cao

Đây là một điều kiện quyết định để phát triển du lịch sinh thái, bởi vì du lịch sinh thái là một loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên, chỉ có thể tồn tại và phát triển ở những nơi có các hệ sinh thái điển hình với tính đa dạng sinh học cao. Đa dạng sinh học là cơ sở tạo ra sự hấp dẫn đối với khách du lịch, nhờ đó du lịch sinh thái mới tồn tại và phát triển được. Có thể nói nếu không có sự đa dạng sinh học thì không thể có du lịch sinh thái.

Muốn du lịch sinh thái phát triển, cần phải có đội ngũ hướng dẫn viên du lịch, không chỉ nắm bắt được các kiến thức về du lịch mà còn có trình độ hiểu biết nhất định về các đặc điểm sinh thái tự nhiên và văn hoá ở địa phương. Họ có khả năng tuyên truyền, giải thích cho khách du lịch về văn hoá, lịch sử và đa dạng sinh học, góp phần nâng cao nhận thức cho du khách về môi trường và bảo tồn đa dạng sinh học.

Du lịch sinh thái đòi hỏi những người quản lý, điều hành du lịch phải nắm vững và tôn trọng các nguyên tắc của du lịch sinh thái. Một mặt, các nhà quản lý, điều hành du lịch sinh thái quan tâm đến lợi nhuận do du lịch mang lại nhưng mặt khác họ phải quan tâm đến việc bảo tồn đa dạng sinh học thông qua


các hạot động thiết lập quan hệ hợp tác với nhà quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên và cộng đồng địa phương nhằm mục đích đóng góp vào việc bảo vệ một cách lâu dài các giá trị thiên nhiên và văn hoá, cải thiện cuộc sống, nâng cao sự hiểu biết chung giữa người dân địa phương với khách du lịch. Đây là điểm khác nhau cơ bản giữa du lịch sinh thái với các loại hình du lịch khác.

Giảm thiểu tối đa các tác động tiêu cực của du lịch sinh thái đến môi trường

Hoạt động du lịch sinh thái thường có những tác động tiêu cực đến tự nhiên và môi trường. Nếu không có các biện pháp hạn chế những tác động tiêu cực sẽ làm mất đi cơ sở phát triển bền vững của du lịch sinh thái. Du khách sẽ không đến những nơi mà họ không có cơ hội thoả mãn về sự khám phá đa dạng sinh học cũng như các giá trị tự nhiên, lịch sử, văn hoá khác.

Để hạn chế những tác động tiêu cực đến môi trường, du lịch sinh thái cần tính toán đến lượng khách tham quan một cách hợp lý, đảm bảo sự hài hoà giữa lượng khách tham quan và môi trường. Du lịch sinh thái cần phải tuân thủ các quy định của “Sức chứa”, tính toán số lượng khách đến một địa điểm trong cùng một thời điểm sao cho phù hợp về mặt vật lý, sinh học, tâm lý, xã hội và trình độ quản lý của các người làm du lịch.

Dưới góc độ vật lý: Sức chứa ở đây được hiểu là số lượng tối đa du khách mà khu vực có thể tiếp nhận. Điều này liên quan đến những tiêu chuẩn tối thiểu về không gian đối với mỗi du khách cũng như đối với nhu cầu sinh hoạt của du khách.

Dưới góc độ sinh học: Sức chứa được hiểu là lượng khách tối đa mà nếu số lượng du khách tham quan quá lớn sẽ vượt quá khả năng tiếp nhận của môi trường, làm xuất hiện các tác động bất lợi cho hệ sinh thái do hoạt động của du khách và tiện nghi mà họ sử dụng. Sức chứa này sẽ đạt tới giới hạn khi số lượng du khách và các tiện nghi mà họ sử dụng bắt đầu có những ảnh

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 01/09/2022