Tiềm Năng Xuất Nhập Khẩu Của Thị Trường Australia


Xu hướng quan trọng nhất trong sự tăng trưởng nền kinh tế Australia (trong điều kiện tương đối ) là sự phát triển của khu vực khai thác khoáng sản (bao gồm cả dầu mỏ). Tỷ lệ đóng vào GDP của khu vực này tăng từ 4,5% trong năm 1993-1994 đến gần 8% trong năm 2006-2007.

Lĩnh vực dịch vụ cũng tăng trưởng đáng kể; bất động sản và kinh doanh các dịch vụ nói riêng tăng từ 10% đến 14,5% so với cùng kỳ, khiến nó trở thành thành phần lớn nhất trong GDP ( trong điều kiện ngành ). Trong đó, ngành sản xuất, chiếm 12% GDP năm 2006-2007, đóng góp một tỷ lệ đáng kể. Một thập kỷ trước đó, nó là thành phần kinh tế lớn nhất trong nền kinh tế, chiểm chỉ hơn 15%GDP.3

Nói chung Australia là một trong những nền kinh tế lớn có tính mở và có sức cạnh tranh cao một phần nhờ vào việc duy trì tăng trưởng mạnh đi kèm lạm phát thấp. Tỷ lệ lạm phát của Australia luôn ổn định trong những năm qua. Nền kinh tế phát triển mạnh bắt nguồn từ sự quản lí kinh tế hiệu quả và cải cách cơ cấu hợp lý. Australia hiện có một khung chính sách kinh tế khá toàn diện. ở Australia, hệ thống thuế dành ưu đãi khá nhiều cho giới kinh doanh, ít rào cản thương mại và đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát triển. Không chỉ có vậy, thị trường lao động linh hoạt và độ lành nghề cao, với tăng trưởng kinh tế mạnh, mức lương và giá cả vừa phải, tạo sức đẩy liên tục trong giải quyết việc làm. Và một trong những yếu tố dẫn tới sự phát triển thịnh vượng của nền kinh tế Australia là nền công nghiệp tri thức hay nói cách khác nền kinh tế Australia được điều khiển bởi các hoạt động sản xuất, phân phối sử dụng tri thức và công nghệ thông tin. Việc vận dụng hiệu quả công nghệ thông tin đã mang lại cho nước Australia nhiều thành tựu kinh tế to lớn. Các nhà kinh doanh Australia sử dụng công nghệ thông tin rất phổ biến. Thị trường viễn thông và công nghệ thông tin của Australia là thị trường

Tạp chí kinh tế đối ngoại http://en.wikipedia.org/wiki/Australia

3 Nguồn: Australia http://en.wikipedia.org/wiki/Australia


lớn thứ ba ở Châu Á Thái Bình Dương và là một trong số mười thị trường lớn nhất trên thế giới.


1.3. Thương mại quốc tế và cán cân thanh toán

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

Trong điều kiện thương mại, kinh tế Australia đã liên tục thâm hụt tài khoản vãng lai trong hơn 50 năm. Theo Cục Thống kê Australia, thâm hụt tài khoản vãng lai của Australia trong năm 2009 là 17 tỷ USD. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thâm hụt là do Australia là một nước nhập khẩu truyền thống, khoản tiết kiệm quốc gia thường rất ít. Những khoản chi phí vượt trội buộc các doanh nghiệp phải vay vốn đầu tư từ nước ngoài. Cùng lúc đó, khi chính phủ muốn thoát khỏi thâm hụt ngân sách, họ lại phải đi vay tiền từ các doanh nghiệp trong nước để đáp ứng nhu cầu tiền tệ. Các nhà kinh tế gọi đây là “Tác động chèn ép”. Tức là khi chính phủ tăng chi tiêu, phải mượn tiền từ các thành phần kinh tế tư nhân, các thành phần kinh tế tư nhân bị chèn ép giảm tiêu dùng hoặc đầu tư. Không có đủ quỹ, các doanh nghiệp tư nhân lại vay vốn nước ngoài, điều này lại càng đẩy ngân sách ngày càng thâm hụt sâu hơn. Thâm hụt tài khoản vãng lai đi kèm với tăng trưởng GDP cao. Tuy nhiên, thâm hụt tài khoản vãng lai quá lớn đồng nghĩa với việc làm giảm niềm tin đối với các nhà đầu tư và tăng khả năng khủng hoảng tiền tệ, ngân hàng trung ương buộc phải thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô để giới hạn tăng trưởng kinh tế. Khi các hoạt động kinh tế bị giới hạn, mức đầu tư thấp và chi phí thấp vô hình chung làm hạn chế sự tăng trưởng của tài khoản vãng lai. Tuy nhiên, thâm hụt tài khoản vãng lai ở Australia cần một giải pháp dài hạn để đảm bảo được tính bền vững của nền kinh tế Australia.

Trong năm 2009-2010, thâm hụt tài khoản vãng lai hy vọng sẽ được thu hẹp và cải thiện nhờ những chuyển biến tích cực trong cán cân thương mại. Hoạt động xuất khẩu hy vọng sẽ được đẩy mạnh trong năm 2009-2010 trong


khi nhu cầu đối với hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu sẽ giảm bớt do tiêu dùng của các hộ gia đình sẽ trở nên hạn chế khi chính sách tiền tệ được thắt chặt. Mức thâm hụt thu nhập cũng sẽ được cải thiện đôi chút góp phần làm giảm sự chênh lệch về lãi suất của Australia so với những nền kinh tế khác.

2. Thói quen tiêu dùng của người Australia

Nước Australia là một nước đa văn hóa với rất nhiều cư dân từ các nước khác nhau trên thế giới đến nhập cư. Chính vì thế nhu cầu tiêu dùng của người Australia cũng rất đa dạng và phong phú.

Với mức sống cao nhất nhì trên thế giới, người Australia có xu hướng tiêu dùng vói tiêu chí “ Giá cả tương xứng với giá trị”. Nhìn chung, phần đa người dân Australia có cái nhìn khá bảo thủ và rất hiều biết về vấn đề này. “ Giá cả tương xứng với giá trị” không có nghĩa người tiêu dùng Australia luôn sẵn sàng bỏ ra một số tiền lớn để mua mặt hàng mình thích. Mà trên thực tế, phần lớn người tiêu dùng luôn so sánh giá cả của rất nhiều nhà bán lẻ trước khi đưa ra quyết định mua hàng. Với tiêu chí mua hàng như thế, những mặt hàng giá rẻ thường không chiếm được thị phần lớn ở thị trường này.

Như đã nói ở trên, phần lớn người dân ở Australia là dân nhập cư và phần lớn hàng hóa ở Australia là hàng nhập khẩu. Người Australia đã quá quen với việc tiêu dùng hàng hóa nhập khẩu nên hầu như họ không quá để ý tới nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm. Dù sản phẩm đấy là từ Châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc hay từ những nước nhỏ không được nhiều người biết đến, miễn chất lượng tốt, họ đều tiêu dùng. Xuất phát từ quốc tịch khác nhau nên nhu cầu thị hiếu khác nhau, thị trường tiêu dùng của Australia càng phong phú và đa dạng. Đại bộ phận người tiêu dùng Australia có thái độ cởi mở với hàng nhập khẩu, tạo tiền đề tốt cho các nước xuất khẩu trên thế giới. Tiếp cận thị trường này, nhà xuất khẩu vừa gặp khó khăn lại vừa thuận lợi. Thuận lợi


bởi mặt hàng của họ sẽ không quá kén người mua, khó khăn vì chưa hẳn số lượng người mua đã là lớn do những nhu cầu khác nhau.

Tuy nhiên, không phải cởi mở với hàng nhập khẩu có nghĩa là đoạn tuyệt với hàng nội địa. Với người tiêu dùng Australia, chất lượng được đặt lên hàng đầu, nên là hàng nội địa nhưng chất lượng tốt, và được đánh giá là “ Giá cả tương xứng với giá trị” thì họ vẫn mua. Người tiêu dùng Australia có thể được đánh giá là những người tiêu dùng thông minh bởi họ biết sử dụng đồng tiền đúng với giá trị của nó. Và qua đó cũng có thể thấy trong việc tiêu dùng sản phẩm, họ có cái nhìn không quá khắt khe. Sản phẩm đó, miễn chất lượng tốt và tương ứng với giá tiền thì họ sẽ rút túi. Cái tiêu chí đấy có vẻ rất đơn giản nhưng không phải nhà bán lẻ nào cũng có thể thỏa mãn được.

Nắm được thị hiếu, khá nhiều đơn vị bán lẻ ở Australia kinh doanh theo chính sách hoàn trả lại tiền hoặc đổi hàng nếu hàng hóa có vấn đề về chất lượng hoặc thậm chí đơn giản do người mua thay đổi ý định đổi hàng. Các nhà bán ở Australia tập trung vào uy tín của cửa hàng và chất lượng của sản phẩm để thiết lập mối quan hệ bền vững với khách hàng. Yêu cầu của họ đưa ra đối với sản phẩm cũng khắt khe không kém khách hàng. Nhà nhập khẩu hay nhà bán lẻ Australia không bao giờ nhập khẩu hay bán những mặt hàng chưa đạt được tiêu chuẩn họ đưa ra. Bởi nếu đi ngược với điều này, hàng nhập về không bán được, doanh số bán hàng của họ sẽ giảm sút đồng nghĩa với mức thu nhập thấp. Mà đối với bất cứ doanh nghiệp kinh tế nào, yếu tố lợi nhuận cũng được đặt lên hàng đầu.

Tuy nhiên, ở Australia, một bộ phận không nhỏ cũng rất ưa chuộng những mặt hàng nhập khẩu có mức giá cao và mang tính thời trang ví vụ như quần áo và giày dép thời trang của phụ nữ từ Pháp, Italia hay ô tô nhập khẩu từ Châu Âu. Phần lớn người tiêu dùng này thuộc tầng lớp thượng lưu và có nhu cầu lớn đối với các mặt hàng xa xỉ. Mặc dù giá cao nhưng những mặt


hàng đấy đã có những thương hiệu nhất định, xây dựng được niềm tin trong người tiêu dùng. Tầng lớp này bỏ một số tiền lớn để mua món hàng họ muốn và họ cũng biết rằng những gì họ bỏ ra là xứng đáng.

Nói tóm lại, người tiêu dùng Australia đặt ra tiêu chuẩn chất lượng rất cao đối với hàng hóa. Những tiêu chuẩn này được hỗ trợ bởi một loạt các quy định bảo bệ người tiêu dùng ở tất cả các bang. Quan điểm này cũng được các nhà nhập khẩu và bán lẻ chấp nhận và yêu cầu khắt khe.

Đối với các nhà nhập khẩu Australia, đa số người bán lẻ ở Australia thường kinh doanh theo chính sách hoàn trả lại tiền hoặc hàng đổi hàng nếu hàng hóa có vấn đề về chất lượng nên các nhà nhập khẩu hiểu rất rõ sự cần thiết về chất lượng ổn định. Thông thường, các nhà nhập khẩu Australia kinh doanh dựa trên thói quen. Họ rất ít khi thay đổi nhà cung cấp mới mà thường tạo ra mối quan hệ gần gũi quen thuộc với một nhà cung cấp để đảm bảo được tính liên tục của việc kinh doanh. Nếu có sự thay đổi trong nhà cung cấp, thì nguyên nhân chính chỉ có thể là do nhà cung cấp phá vỡ cam kết không bán hàng cho nhà nhập khẩu khác hoặc do nhà cung cấp mới có mức giá chào thấp hơn tương đối so với các nhà cung cấp nội địa và các nhà cung cấp nước ngoài đã có thâm niên buôn bán với Australia từ trước.

Mối quan tâm lớn nhất của các nhà nhập khẩu Australia là giá cả, độ tin cậy và tính linh hoạt. Quy tắc chung của người bán lẻ Australia là không nhập khẩu một sản phẩm nào trừ khi sản phẩm đó rẻ hơn ít nhất 15% so với các sản phẩm cùng loại sẵn có trên thị trường nội địa. Điều kiện cơ bản để nhà nhập khẩu Australia cân nhắc làm ăn với nhà cung cấp mới là sự chênh lệch về giá của các nhà cung cấp mới phải thấp hơn ít nhất 5% tính trên giá FOB. Một điểm quan trọng nữa là các nhà nhập khẩu Australia thường không thích mặc cả. Họ sẵn sàng thương thảo để đưa ra mức giá hợp lí nhất nhưng độ chênh lệch là không quá 20%. Với những đơn chào hàng có mức giá không


thực tế, họ sẵn sàng phản hồi thẳng thắn và có thể sẽ không xem xét đến đơn đặt hàng đấy nữa. Vì vậy, mức giá các nhà cung cấp đưa ra nên là mức giá chính xác và hợp lý nhất. Mức giá này thường phải thấp hơn mức giá chào bán cho người mua tại Mỹ và Châu Âu với tỷ lệ mặc cả không quá 3% đến 5%. Đối với các nhà nhập khẩu Australia , sự tin cậy rất quan trọng. Họ thường mong muốn trả giá thấp hơn so với các nhà nhập khẩu tại Mỹ và Châu Âu nhưng đòi hỏi các nhà cung cấp phải có khả năng sản phẩm có chất lượng ổn định, giao hàng đúng hạn và liên lạc đều đặn. Trước khi đặt hàng, họ thường thẩm tra các quy trình hoạt động sản xuất của nhà cung cấp để kiểm tra trình tự kiểm soát chất lượng, hoạt động sản xuất và hiệu quả của công ty cung cấp. Khi làm ăn kinh doanh với một khách hàng mới, họ thường đặt hai hoặc ba đơn hàng thử nghiệm để đảm bảo nhà cung cấp đáp ứng được các tiêu chuẩn về chất lượng. Khi đạt yêu cầu, nhừng đơn hàng sau sẽ được đặt thông qua e-mail hoặc fax và số lượng đặt hàng có thể tăng lên. Các nhà nhập khẩu Australia cũng rất chú trọng đến tính linh hoạt của nhà cung cấp. Thị trường tiêu dùng Australia có quy mô nhỏ và nhu cầu về hàng hóa cũng thường xuyên thay đổi. Nên khi làm việc với các nhà nhập khẩu ở đây, nhà cung cấp phải sẵn sàng chấp nhận những đơn đặt hàng có giá trị vừa phải.

Ngoài ra, các nhà nhập khẩu Australia cũng rất quan tâm đến bao bì đóng gói. Khi lựa chọn hai đơn chào hàng với giá cả như nhau, họ sẽ chọn sản phẩm nào có bao gói tốt hơn. Bao bì đóng gói họ quan tâm không chỉ là bao gói, nhãn mác của những lô hàng đa kiện mà còn là bao bì đóng gói của các mặt hàng bán lẻ mà họ kinh doanh. Bao bì bán lẻ phải có thông tin chi tiết, hấp dẫn và có chất lượng cao mới mong thu hút được sự chú ý của các nhà nhập khẩu ở đây. Họ có những yêu cầu nhất định đối với bao bì của từng loại mặt hàng; các mặt hàng như vỏ chăn, ga, gối, đệm thì được yêu cầu đóng gói trong những túi bằng vải nhựa poly trong khi đồ chơi rẻ tiền cũng phải có bao


bì đóng gói tốt với nhãn mác treo in đẹp, hấp dẫn. Có rất nhiều nhà cung cấp trên thế giới, mặc dù chất lượng sản phẩm của họ rất tốt nhưng chỉ vì quy trình đóng gói kém mà đã gặp không ít khó khăn khi tiếp cận thị trường này. Chính vì thế, khi chào hàng cho các nhà nhập khẩu Australia, các nhà cung cấp nên lựa chọn những mặt hàng có chất lượng tốt đi kèm với bao bì đẹp mắt.

Khi tiếp cận với các nhà nhập khẩu Australia, một bức thư chào hàng thông thường sẽ không được chú ý bằng một bức thư chào hàng ngắn gọn trình bày hiểu biết của mình về thị trường và chào hàng với giá cả cạnh tranh hợp lí cùng bao bì đóng gói tốt. Bởi một ngày các nhà nhập khẩu Australia nhận được rất nhiều đơn chào hàng khác nhau từ các nước trên thế giới với những nội dung tương tự. Một bức thư chào hàng có giá trị sẽ cho họ thấy được mối quan tâm thực sự của nhà cung cấp bằng vốn hiểu biết sâu sắc về thị hiếu người tiêu dùng nước nhập. Nhưng để đảm bảo chắc chắn hơn phần trăm thành công, các nhà cung cấp nên trực tiếp đến thăm dò và khảo sát thị trường đồng thời trao đổi trực tiếp với các công ty Australia. Nhưng các cuộc hẹn nên được sắp xếp trước thông qua các đại diện thương mại của nước người xuất khẩu ở Australia hoặc thông qua phòng thương mại và công nghiệp Australia bằng fax hay email.

3. Tiềm năng xuất nhập khẩu của thị trường Australia

3. 1 Tiềm năng xuất khẩu của thị trường Australia

3.1.1 Đối tác xuất khẩu chính của Australia

Biểu đồ 1: Các

Vùng xuất khẩu chính của Australia 13 năm 2008 2009 Nguồn Bộ Thương mại và 1

vùng xuất khẩu

chính của Australia

13

năm 2008- 2009


(Nguồn: Bộ Thương mại và Ngoại giao Australia)

Hơn một thế kỷ qua, với lợi thế đặc biệt trong lĩnh vực khai thác mỏ và nông nghiệp, Australia đã và đang phát triển các thế mạnh cạnh tranh mới để trở thành nhà cung cấp quốc tế các sản phẩm và dịch vụ tiên tiến.

Thị trường quan trọng nhất của Australia trong thương mại hàng hóa là Châu Á với gần một nửa kim ngạch thương mại được thực hiện với các nước phía Bắc và Đông Nam Á trong vòng một nửa thập kỷ qua. Kim ngạch thương mại của Australia với khu vực Bắc Á năm 2008-2009 chiếm khoảng 53.2% kim ngạch xuất khẩu cả nước. Trong khi đó, kim ngạch thương mại với khu vực Đông Nam Á chiếm khoảng 9.2% kim ngạch xuất khẩu. Trong vòng 10 năm qua, kim ngạch thương mại của Australia với khu vực Bắc Á và Đông Nam Á tăng trưởng trung bình tương ứng 6% và 9%.

Trong năm 2009, Australia xuất khẩu nhiều nhất sang Nhật Bản, chiếm 22,8% tổng kim ngạch xuất khẩu, theo sau là Trung Quốc với 17,1%, Hàn Quốc 8,3%, Ấn Độ 6,7%, Mỹ 5% và Anh 5%.4

Biểu đồ 2: Các nước xuất khẩu chính của Australia năm 2008-2009


4 Nguồn: http://www.dfat.gov.au/publications/stats-pubs/dme/direction_exports_0708.pdf

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 30/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí