Cơ Cấu Gdp Của Các Thành Phần Kinh Tế Năm 2010-2014.



chóng, các hợp tác xã bị giải thể thay vào đó là các hộ xã viên chuyển sang kinh doanh cá thể. Theo số liệu thống kê của liên minh các hợp tác xã Việt Nam: “Năm 1986 cả nước có khoảng 74.490 hợp tác xã thì đến năm 1996 chỉ còn 18.607 hợp tác xã và đến năm 2000 chỉ còn 15.144 hợp tác xã” [69, tr.105]. Như vậy số lượng các hợp tác xã đã giảm đi 5 lần.

Nguyên nhân chủ yếu là do, trong giai đoạn này nền kinh tế nước ta đã hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, tạo ra sự cạnh tranh trên thị trường. Cơ chế quản lý cũ của các hợp tác xã (HTX), cơ chế kế hoạch hóa tập trung không còn phù hợp.

* Giai đoạn 2001-2017

Quan điểm đổi mới giai đoạn này được thể hiện thông qua văn kiện Đại hội IX, X, XI, XII và các văn kiện khác của Đảng và nhà nước.

Để phát triển quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, đối với kinh tế tập thể Đại hội IX đã có sự phát triển so với Đại hội VIII, đó là Đại hội IX đã xác định rõ hơn về sở hữu của kinh tế tập thể: “các hợp tác xã dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, không giới hạn quy mô lĩnh vực và địa bàn” [30, tr.98]. Như vậy, kinh tế hợp tác không chỉ bao gồm sở hữu của các thành viên góp lại như: người lao động, các hộ sản xuất kinh doanh… mà còn bao gồm cả sở hữu chung, tài sản chung của người lao động, các hộ sản xuất kinh doanh… được hình thành trong quá trình sản xuất kinh doanh dưới sự liên kết lại của họ với tư cách là một pháp nhân trong kinh tế. Để phát triển kinh tế tập thể cần phải có sự hỗ trợ của nhà nước. Do vốn ít, thiếu kinh nghiệm trong sản xuất, thiếu thông tin thị trường do đó để thành phần kinh tế tập thể phát triển nhà nước cần có chính sách hỗ trợ họ. Đại hội IX khẳng định: “Nhà nước giúp đỡ hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học công nghệ, nắm bắt thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã, giải quyết nợ tồn đọng” [30, tr.98].

Đại hội X của Đảng khẳng định: “Tổng kết thực tiễn, sớm có chính sách, cơ chế cụ thể khuyến khích phát triển mạnh hơn các loại hình kinh tế tập



thể đa dạng về hình thức sở hữu và hình thức sản xuất kinh doanh” [31, tr.86]. Đại hội X có sự phát triển hơn trước đó là tăng cường vốn góp trong kinh tế tập thể: “khuyến khích việc tăng vốn góp và các nguồn vốn huy động từ thành viên để tăng nguồn vốn hoạt động của hợp tác xã, tăng vốn đầu tư phát triển, tăng tài sản và quỹ không chia trong hợp tác xã” [31, tr.86]. Đại hội X của Đảng cũng chú trọng nguyên tắc trong hình thành hợp xã và đề ra các nguyên tắc đó là: “Hợp tác xã và các loại hình kinh tế hợp tác hoạt động theo nguyên tắc: hợp tác tự nguyện; dân chủ, bình đẳng và công khai; tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi; hợp tác và phát triển cộng đồng” [31, tr.86]. Như vậy, ngoài nguyên tắc; tự nguyện, dân chủ, bình đẳng, Đại hội X còn đề ra các nguyên tắc khác như: công khai, tự chủ và tự chịu trách nhiệm, ngoài nhiệm vụ phát triển sản xuất kinh doanh thì các hợp tác xã còn có trách nhiệm về văn hóa xã hội là hợp tác và phát triển cộng đồng.

Đại hội XI của Đảng cũng đề ra các chính sách nhằm phát triển sản xuất kinh doanh của các hợp tác xã: “tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tập thể phát triển đa dạng, mở rộng quy mô; có cơ chế chính sách hợp lý trợ giúp các tổ chức kinh tế hợp tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, mở rộng thị trường, ứng dụng công nghệ mới, tiếp cận vốn” [33, tr.110].

Đại hội XII khẳng định: “tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác xã; đẩy mạnh liên kết và hợp tác dựa trên quan hệ lợi ích, áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, phù hợp với cơ chế thị trường” [34, tr.107].

Cụ thể hóa các chủ trương của Đảng năm 2012, chúng ta đã thông qua Luật hợp tác xã mới thay cho các Luật hợp tác xã trước đây. Luật hợp tác xã năm 2012 có sự khác biệt so với Luật hợp tác xã cũ, đó là đã quy định cụ thể hơn rõ ràng hơn về mục tiêu và hình thức tổ chức, quản lý trong các hợp tác xã theo đúng bản chất của hợp tác xã là giúp đỡ, hợp tác, tương trợ lẫn nhau cùng phát triển. Chẳng hạn, về mục tiêu của hợp tác xã là đáp ứng nhu cầu chung của các thành viên về cung ứng dịch vụ đầu vào hoặc đầu ra cho các



thành viên trong hợp tác xã. Điều này có tác dụng tốt hơn so với từng thành viên tự làm, tăng cường khả năng cạnh tranh của từng thành viên trong nền kinh tế thị trường và phù hợp với mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Trong quản lý hợp tác xã thực hiện theo nguyên tắc: tự nguyện, dân chủ, công khai, bình đẳng giữa các thành viên. Nguyên tắc của hợp tác xã là: bình đẳng và tương trợ lẫn nhau, do đó, không có tình trạng áp bức, bóc lột… Để làm được điều này Luật hợp tác xã năm 2012 quy định rõ mức góp vốn tối đa của mỗi thành viên không quá 20% để không có thành viên nào chiếm cổ phần chi phối, các thành viên đều bình đẳng trong các quyết định của mình. Về quan hệ phân phối, hợp tác xã có sự kết hợp hài hòa lợi ích của các thành viên hợp tác xã và hợp tác xã phân phối được thực hiện theo lao động của các xã viên và theo cổ phần góp vốn. Quan hệ phân phối ở đây do bản chất của hợp tác xã là liên kết, hợp tác và tương trợ lẫn nhau không có ai có quyền quyết định chi phối. Do vậy, trong quan hệ phân phối là hoàn toàn bình đẳng theo lao động và vốn góp của các xã viện. Quan hệ phân phối này đúng với nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội, vì vậy đã gắn kết các thành viên của hợp tác xã lại với nhau vì mục tiêu kinh tế và xã hội.

Kết quả hoạt động của kinh tế tập thể mà nòng cốt là kinh tế hợp tác trong giai đoạn 2001 - nay (2017) như sau:

Doanh thu của khu vực kinh tế tập thể ngày càng tăng theo số liệu thống kê: “Năm 2010 doanh thu là 86.000 tỷ đồng, năm 2011 là 11.679 tỷ đồng, năm 2012 là 129.821tỷ đồng, năm 2013 là 144.296 tỷ đồng, năm 2014 là 158.964 tỷ đồng” [148, tr.150].

Qua việc thực hiện chuyển đổi mô hình hợp tác xã theo luật hợp tác xã năm 1996, sửa đổi năm 2003 và luật hợp tác xã kiểu mới năm 2012 số lượng các hợp tác xã ngày càng tăng. Theo số liệu thống kê của liên minh hợp tác xã Việt Nam: “tính đến ngày 31-12-2011 cả nước có 19500 hợp tác xã, tăng 4650 hợp tác xã so với năm 2001, tốc độ tăng giai đoạn 2007-2011 là 31%, cao hơn giai đoạn 2002-2006 là 13%, thu hút khoảng 13 triệu xã viên và người lao động các cơ sở sản xuất nhỏ” [69, tr.138].



Tuy nhiên, mặc dù kinh tế tập thể có sự tăng trưởng qua các năm theo doanh thu, nhưng tỷ trọng của kinh tế tập thể còn chiếm tỷ trọng nhỏ bé trong nền kinh tế quốc dân theo số liệu thống kê: tính theo tỷ lệ % cơ cấu tổng sản phẩm trong nước.

Bảng 3.2: Cơ cấu GDP của các thành phần kinh tế năm 2010-2014.

Đơn vị tính %


Năm

2010

2011

2012

2013

2014

Kinh tế nhà nước

29,34

29,01

29,39

29,01

28,73

Kinh tế tập thể

3,99

3,98

4,00

4,03

4,04

Kinh tế tư nhân

6,90

7,34

7,97

7,78

7,79

Kinh tế cá thể

32,07

32,55

32,65

31,71

31,50

Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài

15,15

15,66

16,04

17,36

17,89

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 182 trang tài liệu này.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Về sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam - 15

Nguồn: Niên giám thống kê năm 2014 [147, tr.152]

Như vậy, trong cơ cấu tổng sản phẩm trong nước GDP thì kinh tế tập thể vẫn chiếm tỷ lệ nhỏ bé nhất trong nền kinh tế chỉ từ 3,99% - 4,04% (từ năm 2010 - 2014), trong khi đó kinh tế cá thể mặc dù có giảm đi nhưng vẫn chiếm số lượng lớn trong nền kinh tế từ: 32,07% - 31,50% [147, tr.152]. Điều này cho chúng ta thấy; kinh tế tập thể còn chưa thu hút được nhiều hộ kinh doanh cá thể vào làm ăn tập thể.

3.1.3. Đánh giá chung

Về quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thể hiện ở kinh tế nhà nước, mà nòng cốt là các doanh nghiệp nhà nước.

Những biến đổi tích cực được thể hiện:

Thứ nhất, số lượng các doanh nghiệp nhà nước đã giảm đi liên tục qua các năm. Năm 1986 ta có khoảng 12000 doanh nghiêp, đến năm 2001, cả nước có khoảng gần 6.000 doanh nghiệp nhà nước, thì đến năm 2011, có

1.369 doanh nghiệp nhà nước, và tính đến hết tháng 10-2016, còn 718 doanh nghiệp nhà nước. Như vậy, số lượng doanh nghiệp nhà nước đã giảm đi 17 lần so với trước đổi mới.



Thứ hai, chất lượng các doanh nghiệp nhà nước được tăng cường. Điều này được thể hiện; chúng ta đã hình thành các tập đoàn kinh tế lớn đóng vai trò nòng cốt, xương sống cho doanh nghiệp nhà nước và cả nền kinh tế như: Tập đoàn Viễn thông quân đội, Tập đoàn Điện lực, Tập đoàn Cao su, Tập đoàn Dệt may…Từ chỗ các doanh nghiệp nhà nước quy mô nhỏ, vốn ít chúng ta đã ta đã thành lập các tổng công ty và các tập đoàn kinh tế lớn đóng vai trò đầu tầu của nền kinh tế tăng cường khả năng hợp tác cạnh tranh với bên ngoài.

Hiện nay các tập đoàn, tổng công ty nhà nước tập trung nắm giữ các ngành lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như: Dầu khí, sắt thép, xi măng, ngân hàng, bảo hiểm, cao su, vận tải, xây dựng, đóng tàu, thương mại… Đây là lực lượng vật chất to lớn và là cơ sở để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.

Thứ ba, các ngành, lĩnh vực thuộc sở hữu 100% vốn doanh nghiệp nhà nước đã được thu hẹp lại tập trung vào các lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế để làm tốt hơn vai trò chủ đạo, tạo điều kiện, địa bàn cho các thành phần kinh tế khác phát triển. Từ chỗ doanh nghiệp quốc doanh 100% vốn nhà nước năm 1986 ở hầu hết các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế thì đến năm 2016 chỉ còn chiếm 19 ngành tập trung vào những ngành then chốt trọng yếu trong nền kinh tế.

Thứ tư, doanh nghiệp nhà nước góp phần quan trọng để kinh tế nhà nước ổn định kinh tế và giải quyết các vấn đề của xã hội tạo ra một xã hội công bằng hơn, khắc phục mặt trái của kinh tế thị trường như: phân hóa giàu nghèo, an sinh xã hội, lạm phát. Các doanh nghiệp nhà nước trong các ngành điện lực, xăng dầu, ngân hàng… đã đóng góp nhiều vào ổn định vĩ mô trong thời kỳ chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng toàn cầu năm 2008-2010.

Điện lực đã đầu tư hàng nghìn tỷ đồng về lưới điện cho vùng sâu, vùng xa, các đồng bào dân tộc ít người tạo điều kiện cho các nơi đó phát triển. Tác giả Dương Quang Thành khẳng định:



Đến nay, 100% số huyện 99,4% số xã và 98,31% số hộ nông dân được sử dụng điện. Đặc biệt tại các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, chỉ 10 năm trước đây tỷ lệ có điện còn rất thấp dưới 30%, nhưng đến nay đa số địa bàn và nhân dân được sử dụng điện và chỉ ra hiệu quả về kinh tế - xã hội là: Quá trình điện khí hóa đóng góp 30% - 40% trong việc phát triển kinh tế tại khu vực nông thôn, góp phần tích cực vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các hộ đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần phát triển mạnh các ngành, nghề thủ công, sản xuất hàng hóa, thực hiện xóa đói giảm nghèo một cách hiệu quả [127, tr.105].

Tập đoàn Bưu chính viễn thông đầu tư về vùng sâu, vùng xa về hạ tầng viễn thông mà doanh nghiệp tư nhân hoặc các thành phần kinh tế khác không muốn làm, đã góp phần nâng cao dân trí, cải thiện đời sống nhân dân và phát triển kinh tế, xã hội ở những nơi đó.

Đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước báo cáo của Bộ Tài chính đã khẳng định:

Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước có chuyển biến tích cực, tình hình tài chính mạnh hơn, vốn nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp được bảo toàn và phát triển, đóng góp số thu cho ngân sách nhà nước góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế [6, tr.17-18].

Những biến đổi tiêu cực:

Thứ nhất, doanh nghiệp nhà nước chiếm phần lớn nguồn lực của xã hội

Doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng nhỏ về số lượng (khoảng 0,75% tổng số doanh nghiệp của cả nước) nhưng khu vực doanh nghiệp nhà nước ở nước ta đang nắm giữ một lượng của cải nguồn lực khổng lồ của đất nước. (Theo số liệu thống kê của niên giám thống kê 2015). Giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn của các doanh nghiệp tại thời điểm 31/12 hàng năm phân theo loại hình doanh nghiệp.


Bảng 3.3: Giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn của các doanh nghiệp

Đơn vị: nghìn tỷ đồng


Năm

Loại hình DN


2010


2011


2012


2013


2014

Doanh nghiệp nhà nước

1759

2416,5

2496,8

2973,1

3358,6

Doanh nghiệp ngoài nhà nước

2129,7

2151,1

2424,3

3231,0

3455,8

Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

770,2

1023,1

1175,9

1419,0

1635,8

Cơ cấu %

Doanh nghiệp nhà nước

37,75

43,22

40,95

39

39,75

Doanh nghiệp ngoài nhà nước

45,72

38,48

39,76

42,38

40,91

Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

16,53

18,3

19,29

18,62

19,35

Nguồn: Niên giám thống kê năm 2015 [148, tr.297].

Như vậy, tính đến ngày 31-12-2014 doanh nghiệp nhà nước chiếm nguồn lực rất lớn là 3358,6 nghìn tỷ đồng tương đương với 39,75% vốn đầu tư của toàn xã hội.

Thứ hai, các doanh nghiệp nhà nước được hưởng nhiều ưu đãi hơn so với các thành phần kinh tế khác như:

Ưu đãi về đất đai; các doanh nghiệp nhà nước được cấp đất dễ dàng hơn các thành phần kinh tế khác và được cấp đất ở vị trí thuận lợi như gần đường giao thông, nguồn nguyên liệu, gần nơi tiêu thụ… Đây là một lợi thế rất lớn, tuy nhiên doanh nghiệp nhà nước lại sử dụng không mấy hiệu quả.

Ưu đãi về tín dụng, các doanh nghiệp nhà nước gần như không phải thế chấp khi vay vốn ngân hàng, nếu có thế chấp thì cũng là thế chấp tài sản của nhà nước để vay vốn ngân hàng. Do đó, các doanh nghiệp nhà nước thường vay nhiều vốn nhưng hiệu quả sử dụng thấp.

Doanh nghiệp nhà nước còn được nhà nước bảo trợ phần lớn trong tín dụng đầu tư của nhà nước; được giãn nợ, khoanh nợ, khi cần thiết thì xóa nợ.



tập đoàn Vinaship được nhà nước bảo trợ vay vốn hàng nghìn tỷ đồng nhưng hoạt động kém hiệu quả.

Doanh nghiệp được nhà nước độc quyền kinh doanh ở một số sản phẩm hàng hóa mà tư nhân khó chen chân vào như: Điện lực, xăng dầu, khoáng sản…

Tuy nắm giữ nguồn lực rất lớn của đất nước và được hưởng nhiều ưu đãi so với loại hình doanh nghiệp khác nhưng doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, được thể hiện:

Một là, hiệu quả sử dụng vốn thấp.

Theo số liệu thống kê: “Để tạo ra 1 đồng doanh nghiệp nhà nước cần 2,2 đồng tiền vốn, trong khi đó doanh nghiệp nước ngoài là 1,3 đồng, doanh nghiệp tư nhân là 1,2 đồng” [126, tr.32]. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp nhà nước hiệu quả sử dụng vốn chỉ bằng 54% của khu vực tư nhân. Các tập đoàn kinh tế nhà nước có tỷ lệ nợ trên vốn sở hữu rất cao hơn 3 lần, theo báo cáo của Bộ Tài chính đến tháng 17/10/2016, có nhiều Tập đoàn, Tổng công ty doanh nghiệp nhà nước có hệ số nợ phải trả/ vốn chủ sở hữu lớn hơn 3: “có 25 Tập đoàn, Tổng công ty có tỷ lệ nợ phải trả/Vốn chủ sở hữu lớn hơn 3 lần; Công ty mẹ là 23 đơn vị như: Tổng công ty Phát thanh truyền hình thông tin (32,84 lần); Tổng công ty Xăng dầu quân đội (19,77 lần); Tổng công ty 36 (15,09 lần); Tổng công ty Xây dựng Trường Sơn (9,37 lần)… Tổng công ty Sông Đà (3,17 lần)” [9, tr.7]. Đồng thời số tiền vay nợ nước ngoài của các doanh nghiệp nhà nước cũng rất lớn: các công ty mẹ nợ nước ngoài là

300.230 tỷ đồng. Trong đó, Công ty mẹ - Tập đoàn Điện lực Việt Nam là 208.962 tỷ đồng; Công ty mẹ - Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam là 23.645 tỷ đồng; Công ty mẹ - Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam (22.845) tỷ đồng; Công ty mẹ Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam là

13.119 tỷ đồng [6, tr.8]. Điều này, cho ta thấy các doanh nghiệp nhà nước chủ yếu sử dụng vốn đi vay, vốn chủ sở hữu còn thấp đến áp lực trả nợ gốc và lãi vay là rất lớn dễ dẫn đến mất khả năng thanh khoản và là một trong các nguyên nhân làm cho các doanh nghiệp nhà nước thua lỗ.

Xem tất cả 182 trang.

Ngày đăng: 10/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí