Yêu Cầu Chủ Quan: Công Tác Quản Lý Nhà Nước Và Đấu Tranh Chống Sản Xuất Ở Nước Ta Còn Nhiều Hạn Chế, Kết Quả Chưa Cao.

phải nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý nhà nước đối với công tác chống sản xuất và buôn bán hàng giả.

Việt Nam phải thực hiện các cam kết quốc tế, phải sửa đổi và xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp với các quy định của WTO. Chính sự hài hoà luật pháp Việt Nam với luật pháp quốc tế không chỉ tạo ra sự ổn định trong hệ thống văn bản pháp luật mà qua đó tạo ra được lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài và thuận lợi cho doanh nghiệp Việt Nam trong quan hệ kinh tế quốc tế, trong đó có cả việc giải quyết tranh chấp quốc tế.

Công tác đấu tranh chống hàng giả cũng đứng trước nhiều thách thức trong việc bảo vệ thị trường trong nước, thực thi các nghĩa vụ cam kết quốc tế cũng như thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc tế tích cực hơn, chặt chẽ và toàn diện hơn nhằm tăng cường năng lực thực thi pháp luật trong lĩnh vực đấu tranh chống hàng giả của các cơ quan chức năng trong nước. Đối tượng kiểm tra, kiểm soát hành vi vi phạm trong lĩnh vực hàng giả trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế là cực kỳ quan trọng khi mà thế giới đã coi sở hữu công nghiệp nói riêng và sở hữu trí tuệ nói chung là một tài sản cần phải được bảo hộ. Hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật, chế tài xử lý đối với các hành vi sản xuất và buôn bán hàng giả là một trong những nội dung quan trọng của công tác quản lý nhà nước trong trong điều kiện mới đòi hỏi phải được tính đến nhằm hoàn thiện môi trường pháp lý làm cơ sở cho công tác kiểm tra, kiểm soát; đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống cơ chế, chính sách pháp luật; vừa ngăn ngừa các hành vi tiêu cực trong kiểm tra, kiểm soát do lợi dụng kẽ hở của cơ chế, chính sách pháp luật; từng bước đưa hệ thống pháp luật của ta phù hợp với pháp luật của WTO và thông lệ quốc tế.

3.2.2. Yêu cầu chủ quan: Công tác quản lý nhà nước và đấu tranh chống sản xuất ở nước ta còn nhiều hạn chế, kết quả chưa cao.

Như đã phân tích, đánh giá ở phần trên, công tác đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả còn nhiều hạn chế. Hiện có nhiều cơ quan nhà nước ở

trung ương và địa phương liên quan trực tiếp đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả, bao gồm Hải quan, Quản lý thị trường, cảnh sát kinh tế, Thanh tra khoa học công nghệ và cả các cơ quan quản lý chuyên ngành như Y tế, Văn hóa, Nông nghiệp ... và đối với từng ngành hàng, trách nhiệm quản lý chính được giao cho từng Bộ làm cho việc thực hiện chức năng chồng chéo, tạo ra kẽ hở, không kiểm soát được một cách toàn diện các vụ việc. Do không có cơ quan quản lý thống nhất trong lĩnh vực chống sản xuất, buôn bán hàng giả nên trong thực tế chưa có sự chỉ đạo, điều hành thống nhất chung, mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực này chưa hiệu quả dẫn đến tình trạng mạnh ai nấy làm, chồng chéo. Điều này dẫn đến kết quả là khả năng ngăn chặn và xử lý vi phạm trong sản xuất, buôn bán hàng giả còn hạn chế.

Cơ chế, chính sách và pháp luật còn quá nhiều bất cập với thực tế, mức xử lý hành chính theo quy định của pháp luật hiện hành quá thấp, không đủ sức răn đe, chưa xử lý được các vấn đề về bồi thường thiệt hại; việc tổ chức các hoạt động đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả tuy đã đạt kết quả nhưng chưa cao; cơ chế phối hợp giữa các cơ quan thực thi chưa tốt; sự hiểu biết của toàn xã hội về hàng giả còn thấp, ý thức chấp hành pháp luật về hàng giả chưa cao; ảnh hưởng từ mặt trái của quá trình hội nhập quốc tế chưa được ngăn chặn một cách có hiệu quả, hàng giả từ nước ngoài còn tràn vào Việt Nam khá nhiều. Tình trạng hành chính hoá các vi phạm về hàng giả cũng làm giảm hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm về hàng giả, ranh giới giữa xử lý hành chính và hình sự chưa được quy định rõ ràng. Những kết quả và hạn chế trên đòi hỏi hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả phải được nâng cao hơn nữa trong thời gian tới, khắc phục những hạn chế cơ bản về các mặt để đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.

3.2.3. Kết quả công tác quản lý nhà nước và đấu tranh chống sản xuất, buôn bán hàng giả là yếu tố quan trọng nhằm đảm bảo sự ổn định và phát triển kinh tế ở nước ta.

Điều này được coi như là quy luật tất yếu đối với các nước nói chung và đối với Việt Nam nói riêng đang đẩy mạnh hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Nền kinh tế không thể ổn định và phát triển nếu như các doanh nghiệp làm ăn chân chính không được bảo hộ và các sản phẩm của họ bị hàng giả xâm phạm gây thiệt hại.

Quá trình duy trì ổn định và phát triển kinh tế đòi hỏi công tác quản lý nhà nước về đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả phải đổi mới để đạt được kết quả cao hơn nữa. Các cơ quan thực thi pháp luật chống sản xuất và buôn bán hàng giả phải thực sự là chỗ dựa tin cậy cho các doanh nghiệp làm ăn chân chính, quyền lợi của họ được đảm bảo và cạnh tranh lành mạnh trước pháp luật. Sự ổn định và phát triển của nền kinh tế đòi hỏi phải có sự bình đẳng và công bằng giữa các chủ thể của nền kinh tế. Tăng cường công tác quản lý của Nhà nước về chống sản xuất và buôn bán hàng giả chính là đã góp phần tạo nên sự bình đẳng và công bằng đó. Chính vì vậy, quả công tác quản lý nhà nước và đấu tranh chống sản xuất, buôn bán hàng giả là yếu tố quan trọng nhằm đảm bảo sự ổn định và phát triển kinh tế ở nước ta.‌

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.

3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước và đấu tranh chống sản xuất, buôn bán hàng giả ở nước ta

3.3.1. Nâng cao hơn nữa nhận thức về hậu quả của việc sản xuất và buôn bán hàng giả

Chống sản xuất và buôn bán hàng giả ở Việt Nam hiện nay nhìn từ góc độ quản lý nhà nước - 12

Nhận thức là cơ sở của hành động. Để tạo ra sự thống nhất hành động trong công tác chống sản xuất và buôn bán hàng giả thì vấn đề quan trọng, lâu dài và có ý nghĩa tích cực nhất là cần phải tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục để các cấp, các ngành, các doanh nghiệp, người tiêu dùng cùng nhận thức được những nguy cơ của hàng giả cũng như thấy rõ trách nhiệm của mình trong công tác chống sản xuất và buôn bán hàng giả. Mặc dù xử phạt nặng đối với vi phạm về hàng giả là cần thiết, nhưng về lâu dài, nhận thức của người dân quan trọng hơn. Đặc biệt ở những quốc gia đang phát triển, thì vai trò nhận thức

của công chúng càng có ý nghĩa. Điều này có thể thực hiện bằng cách tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền dưới nhiều hình thức, đặc biệt là trên các phương tiện thông tin đại chúng. Làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục là một trong những giải pháp có ý nghĩa tiên quyết nhằm nâng cao nhận thức của toàn xã hội, từ đó tạo ra sự thống nhất hành động trong công tác phòng chống hàng giả, khắc phục tình trạng thờ ơ, đùn đẩy trách nhiệm của các ngành chức năng.

Hàng giả chỉ có thể ngăn chặn khi mà mọi người tiêu dùng, các nhà sản xuất, các nhà phân phối bán hàng, mọi tổ chức kinh tế xã hội được tuyên truyền đầy đủ thông tin và nhận thức pháp luật về hàng giả. Do vậy, cần phân phải phân loại đối tượng để có nội dung tuyên truyền phù hợp:

Thứ nhất, đối với các đối tượng kinh doanh cần tuyên truyền, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật và nhận thức về tính nguy hại của hàng giả để các đối tượng kinh doanh tự giác chấp hành pháp luật, ủng hộ và phối hợp với các cơ quan Nhà nước chống nạn hàng giả; tìm mọi biện pháp tự bảo vệ mình trước nguy cơ tấn công của nạn hàng giả như: đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp, chỉ dẫn địa lý, tên gọi xuất xứ, đăng ký sở hữu trí tuệ, công bố tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá, dịch vụ… hoặc tìm các biện pháp thích hợp khác để bảo vệ sản phẩm của mình như: dán tem hàng hoá, tem chống hàng giả, thực hiện đầy đủ các quy định về ghi nhãn sản phẩm, mở rộng việc quảng bá tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng về sản phẩm chính hiệu của mình, mạng lưới phân phối tiêu thụ...

Thứ hai, đối với người tiêu dùng, các cơ quan chức năng cảnh báo các nguy cơ về hàng giả, giúp cho mỗi người dân có đủ các thông tin cần thiết để nhận biết và lựa chọn được hàng thật, hàng chính hiệu tránh mua phải hàng giả; người tiêu dùng cần phải tìm hiểu thật kỹ sản phẩm trước khi mua, nên lựa chọn những thương hiệu có uy tín trên thị trường, tìm hiểu và nắm vững các dấu hiệu nhận biết hàng thật, hàng giả; tìm hiểu và nắm rõ hệ thống phân phối chính thức của sản phẩm cần mua (cửa hàng, đại lý chính thức).

Cần tăng cường hơn nữa nhận thức của người dân về quyền sở hữu trí tuệ nói chung và về hàng giả nói riêng, từ đó nâng cao ý thức của người dân trong nắm bắt thông tin, phát hiện hàng giả kịp thời tố giác với các cơ quan chức năng khi phát hiện hoặc mua phải hàng giả, không tiêu thụ hàng giả, không bao che hoặc tiếp tay cho hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả. Nếu phát hiện trường hợp bất thường, người tiêu dùng có thể liên hệ với nhà sản xuất của sản phẩm chính hiệu để nhờ tư vấn nhận dạng, liên hệ với Hội Bảo vệ người tiêu dùng, Hiệp hội chống hàng giả và bảo vệ thương hiệu để được bảo vệ quyền lợi chính đáng.

Thứ ba, đối với các lực lượng kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm về hàng giả thì thường xuyên phổ biến kiến thức pháp luật; kinh nghiệm trong kiểm tra, xử lý và đấu tranh chống hàng giả của các tập thể, cá nhân trong ngoài ngành. Thông tin về diễn biến của hàng thật (đăng ký sở hữu trí tuệ, thương hiệu, công bố tiêu chuẩn chất lượng), tình trạng hàng giả trên thị trường (nổi lên ở từng thời điểm là mặt hàng gì, nguồn gốc ở đâu, kết quả xử lý như thế nào)… để những người làm công tác đấu tranh chống hàng giả nâng cao hiệu quả đấu tranh và ngăn ngừa vi phạm.

Để công tác tuyên truyền giáo dục có hiệu quả, cần thực hiện các công việc cụ thể dưới đây:

Một là, định kỳ hoặc thường xuyên tổ chức các triển lãm hàng thật - hàng giả, phát tờ rơi … nhằm giới thiệu, phổ biến rộng rãi cho mọi người nhận biết về thực trạng hàng giả, các dấu hiệu phân biệt giữa hàng thật và hàng giả đang lưu thông trên thị trường.

Hai là, tổ chức nhiều các hội nghị, hội thảo, tập huấn chuyên đề về hàng giả và công tác chống sản xuất, buôn bán hàng giả để cán bộ các ngành, các cấp, các lực lượng có chức năng chống hàng giả và các doanh nghiệp có điều kiện bổ sung, trang bị các kiến thức, hiểu biết một cách cơ bản và toàn diện hơn về công tác này, đặc biệt là về chuyên môn nghiệp vụ chống hàng giả.

Ba là, có sự quan tâm và đầu tư thoả đáng đối với việc tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng về tình hình, kết quả công tác chống hàng giả của ngành, địa phương và cả nước.

Thông báo trên các phương tiện truyền thông đại chúng các thông tin, các chuyên mục về hàng giả, cách nhận biết hàng giả, các đối tượng làm hàng giả, các vụ hàng giả bị xử lý hoặc xét xử, các vấn đề quốc tế về hàng giả. Các thông tin tuyên truyền về hàng giả cần được giảm phí.

Công tác tuyên truyền đòi hỏi phải được thường xuyên phù hợp với từng loại đối tượng bằng các phương tiện thông tin như: báo nói, báo viết và báo hình… cần phải thường xuyên thay đổi hình thức và phương pháp phải rất đa dạng, phong phú và dễ hiểu, dễ nhớ.


3.3.2. Hoàn thiện pháp luật và cơ chế chính sách về chống sản xuất và buôn bán hàng giả

Hiện nay, vấn đề hàng giả và chống hàng giả được quy định trong nhiều văn bản khác nhau. Các qui định của pháp luật về hàng giả, về kiểm tra, xử lý hàng giả vẫn cần được tiếp tục hoàn thiện, các qui định trong từng lĩnh vực cần được bổ sung tạo nên sự thống nhất, đồng bộ và cụ thể nhằm đáp ứng yêu cầu đặt ra của công tác chống sản xuất và buôn bán hàng giả, nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Trong hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành vẫn chưa có khái niệm pháp lý đầy đủ, chi tiết về hàng giả. Cần pháp điển hoá các qui định về khái niệm, dấu hiệu, chủng loại hàng giả; ban hành qui trình kiểm tra, xử lý đối với hàng giả. Cụ thể là:

Thứ nhất, xây dựng các qui định về việc xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm về sản xuất và buôn bán hàng giả, trong đó thống nhất về mức phạt, các dấu hiệu của hàng giả, hành vi vi phạm; nâng cao mức xử phạt đối với các vi phạm về hàng giả, quy định về cách tính thiệt hại và bồi thường thiệt hại.

Thứ hai, qui định chặt chẽ hơn về quản lý và kiểm soát việc in ấn, nhập khẩu bao bì, nhãn mác. Việc quản lý các cơ sở in ấn, sản xuất, nhập khẩu bao bì hiện nay chưa chặt chẽ. Nên quy định chế tài xử phạt đối với các hành vi vi phạm về in ấn và xử lý đối với các cơ sở in ấn, buôn bán bao bì mang nhãn hàng hoá hoặc nhãn hiệu giả.

Thứ ba, xây dựng và ban hành một quy trình hoàn chỉnh về thủ tục kiểm tra, kết luận vi phạm và xử lý đối với các hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Hoàn thiện các qui định của pháp luật về trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong việc phối hợp kiểm tra, xử lý hàng giả các hành vi sản xuất và buôn bán hàng giả; hướng dẫn cụ thể hơn về giám định sở hữu trí tuệ, mức phí giám định cũng như việc thành lập và hoạt động của các tổ chức này. Nên ban hành quy định trình tự, thủ tục và cơ quan có thẩm quyền giám định; việc lấy mẫu hàng hoá, tang vật để giám định.

Thứ tư, Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định các chế tài đối với hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả nhưng chưa có văn bản hướng dẫn chi tiết về hàng giả (trước đây có Nghị định số 140-HĐBT ngày 25/4/1991 quy định về kiểm tra, xử lý việc sản xuất, buôn bán hàng giả (nay đã hết hiệu lực). Hiện tại, Thông tư liên tịch số 10/2000/TTLT-BTM-BCA-BTC-BKHCNMT về hướng dẫn thực hiện Chỉ thị 31/1999/CT-TTg ngày 27/10/1999 của Thủ tướng Chính phủ về đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả đã qui định một số dấu hiệu về hàng giả và hàng kém chất lượng, một số nội dung trong Thông tư này bị thay đổi, mặt khác tính pháp lý của văn bản chưa cao. Hơn nữa tại Thông tư này, các khái niệm chưa được thể hiện đầy đủ, chi tiết và chính xác. Vì vậy, cần có Thông tư liên tịch giữa Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn cụ thể về việc xử lý hình sự đối với các tội về sản xuất, buôn bán hàng giả qui định tại Bộ luật Hình sự, hướng dẫn các dấu hiệu của tội làm hàng giả, buôn bán hàng giả, đồng thời hướng dẫn cụ thể các tiêu chí,

căn cứ để xem xét, xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các vi phạm này.

3.3.3. Kiện toàn các cơ quan quản lý và đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả

Trong thời gian tới, việc đổi mới tổ chức các cơ quan quản lý nhà nước và các lực lượng đấu tranh chống hàng giả, chỉ đạo điều hành công tác chống hàng giả cần phải được tiếp tục củng cố, hoàn thiện, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động; phát huy và đề cao vai trò cơ quan chống hàng giả ở địa phương theo tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ: nơi nào để xảy ra sản xuất, buôn bán hàng giả, ngoài trách nhiệm thuộc về cấp uỷ và chính quyền địa phương thì Thủ trưởng các cơ quan có chức năng chống hàng giả ở địa phương cũng phải chịu trách nhiệm liên đới; chính quyền các cấp là người chịu trách nhiệm đối với tệ sản xuất, buôn bán hàng giả trên địa bàn; tăng cường hoạt động kiểm tra, đôn đốc của cơ quan chỉ đạo chống hàng giả ở Trung ương; từng bước hiện đại hoá hoạt động đấu tranh chống hàng giả của nước ta để theo kịp và hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Thu hẹp chức năng quản lý nhà nước về chống sản xuất và buôn bán hàng giả vào một đầu mối thống nhất. Xác định vai trò, chức trách cụ thể của từng ngành, từng lực lượng và đặc biệt là vị trí của doanh nghiệp trong công tác đấu tranh chống hàng giả, trên cơ sở đó xác định trách nhiệm của từng ngành, từng cấp trong công tác này, khắc phục tình trạng chồng chéo hoặc ỷ lại như hiện nay. Nội dung trên phải được thể chế hoá bằng một Nghị định của Chính phủ và quy chế phối hợp của liên ngành.

Thực tiễn kiểm tra, xử lý hàng giả trong thời gian qua cho thấy nhiều vụ việc lớn về hàng giả được phát hiện xử lý đều có sự phối hợp giữa các ngành, các lực lượng, các địa bàn và với doanh nghiệp. Vì vậy, bên cạnh việc kiểm tra kiểm soát độc lập của từng ngành, từng lực lượng, từng địa bàn thì việc phối hợp trong việc phát hiện, kiểm tra ngăn chặn và xử lý các vụ việc về hàng giả, nhất là

Xem tất cả 123 trang.

Ngày đăng: 18/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí