Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2003 đến nay - 11


dụng đất và Ủy ban nhân dân cấp xã để bảo đảm nguyên tắc mọi thửa đất đã cấp giấy chứng nhận phải được thể hiện đầy đủ, thống nhất các thông tin trong hồ sơ địa chính ở các cấp. Chỉ đạo rà soát, hoàn thiện hồ sơ địa chính, tổ chức thực hiện tốt việc đăng ký biến động và chỉnh lý hồ sơ địa chính ở các cấp theo đúng quy định tại Thông tư số 09/2007/TT-BTNMT ngày 02 tháng 8 năm 2007 của Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn việc lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính. Đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở dữ liệu địa chính (còn gọi là hồ sơ địa chính dạng số) để sử dụng ở các cấp tỉnh, huyện thay thế cho việc lập hồ sơ địa chính trên giấy nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu quản lý đất đai và yêu cầu công khai hóa thông tin đất đai trong thị trường bất động sản hiện nay. Phấn đấu đến năm 2015 sẽ cơ bản hoàn thành việc xây dựng cơ sở dữ liệu địa chính cho các phường, thị trấn và các xã đồng bằng, trung du và đến năm 2020 sẽ hoàn thành cho các xã còn lại;

Ngoài ra việc xây dựng hệ thống thông tin về đất đai đòi hỏi phải có sự hợp tác của nhiều cơ quan của các nghành khác nhau có liên quan đến thông tin về đất đai, phải có một hệ thống thông tin phục vụ như : hệ thống đăng kí đất đai, hệ thống đăng kí bản đồ, hệ thống đăng kí tài sản… Thông tin này giúp cơ quan quản lý nhà nước quản lý những biến động trong quá trình sử dụng đất và hoạt động giấy chứng nhận. Khi chưa phải xây dựng hệ thống thông tin hoàn thiện thì chúng ta cần hoàn thành từ nhóm thông tin nhỏ như: Phân hạng đất, đăng kí đất…. Từ đó việc tổng hợp, kết nối thông tin sẽ kịp thời và hiệu quả hơn nhiều. Cũng nên thực hiện xã hội hóa dần công tác đo vẽ bản đồ hiện trạng sử dụng đất. Việc đo đạc bản đồ địa chính tới đây, để đẩy nhanh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và bảo đảm tính chính xác thì nên thuê tổ chức dịch vụ làm dưới sự giám sát của cơ quan nhà nước. Các tổ chức này sẽ chịu trách nhiệm về các sản phẩm của mình và phải đo vẽ chính xác. Việc hoàn chỉnh hệ thống bản đồ đại chính chính quy, tin học hóa hệ thống quản lý đất đai cần được tiến hành đồng bộ trong thời gian tới. Cần hoàn thành việc xây dựng hệ thống bản đồ địa chính và hồ sơ địa chính chính quy, xây dung hệ thống quản lý đất đai hiện đại theo định hướng ứng dụng công nghệ thông tin thiết


lập hệ thống mạng máy tính phục vụ quản lý bảo đảm liên kết giữa trung ương và địa phương cấp tỉnh, cấp huyện.

3.2.5. Tăng cường tuyên truyền pháp luật và xử lý nghiêm minh những vi phạm trong công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Có thể nói nơi nào chỉ có sự cố gắng của chính quyền và cơ quan chuyên môn mà không có sự hưởng ứng tích cực từ phía người dân thì nơi đó công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chưa thể đẩy nhanh được. Do đó cần có sự chỉ đạo các cơ quan, tổ chức có liên quan, báo, đài của địa phương lập kế hoạch và thực hiện thường xuyên việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai dưới nhiều hình thức (thông qua các diễn đàn, báo chí, phát thanh, truyền hình, giao lưu trực tuyến…) để người dân nhận thức được trách nhiệm trong việc đăng ký đất đai, quyền lợi khi được cấp giấy chứng nhận và tự giác làm thủ tục cấp giấy chứng nhận, thủ tục về biến động đất đai theo quy định của pháp luật đất đai;

Song song với việc tuyên truyền Nhà nước nên quy định những quy định biện pháp xử lý khi người sử dụng đất không làm thủ tục khi chuyển quyền sử dụng đất bởi lẽ không phải ai cũng có nhu cầu thực hiện các giao dịch dân sự liên quan đến mảnh đất của mình nhất là đất ở.

Các quy định xử lý vi phạm trong công tác quản lý đất đất được quy định rất cụ thể trong Nghị định 181 nhưng nếu không được thực hiện nghiêm minh thì cũng chỉ là những quy định trên giấy tờ. Sự bao tre, đùn đẩy trách nhiệm giữa những người có trách nhiệm khi phát hiện sai phạm không thiếu trong thực tế. Bởi vậy cần tăng cường tổ chức thanh tra, kiểm tra, giám sát thường xuyên việc chấp hành các quy định của pháp luật đất đai trong việc thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận, lập hồ sơ địa chính ở tất cả các cấp để phát hiện, xử lý và khắc phục kịp thời các sai phạm trong quá trình thực hiện, có như vậy mới có sự hợp tác, tin tưởng của nhân dân.

Ở chương này tác giả đã nêu ra các quy định pháp luật hiện hành của cả nước nói chung và Hà Nội nói riêng về việc cấp GCNQSDĐ. Qua đó tác giả đã đưa ra một số ý kiến đánh giá của mình về quy định cũng như thực tiễn cấp GCNQSDĐ. Có thể thấy cho đến giai đoạn hiện nay công tác GCNQSDĐ vẫn còn rất nhiều vấn

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 95 trang tài liệu này.


đề bất cập. Việc bất cấp có cả nguyên nhân từ sự thiếu hụt, thiếu đồng bộ, chồng chéo của các quy định pháp luật và có cả nguyên nhân từ phía các cơ quan thực thi pháp luật. Nhận thức được nguyên nhân đó nhưng chúng ta cũng biết rằng để thay đổi được các thiếu sót này không phải là công việc có thể tiến hành một cách nhanh chóng và triệt để. Đất đai giờ đã trở thành một loại hàng hoá mang lại lợi nhuận vô cùng to lớn khiến những vấn đề phức tạp xoay quanh nó phát sinh hàng ngày, hàng giờ, nhất là ở các đô thị lớn và đông dân như Hà Nội. Do đó chúng ta cần phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, tuyên truyền hơn nữa sự nhận thức của người dân về tầm quan trọng cũng như ý thức về việc chấp hành các quy định về GCNQSDĐ. Đặc biệt hiện nay vấn đề bức xúc nhất của công tác cấp GCNQSDĐ là sự nhũng nhiễu, cửa quyền của một số cán bộ, công chức gây rất nhiều khó khăn và phiền hà cho người dân khi đi làm các thủ tục liên quan đến việc xin cấp GCNQSDĐ. Vì vậy cần xử lý nghiêm và triệt để tình trạng tiêu cực này nhằm góp phần đẩy mạnh hơn nữa công tác cấp GCNQSDĐ để đạt được mục tiêu mà quốc hội đã đề ra là hoàn thành công tác cấp GCNQSDĐ trong năm 2010.

Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2003 đến nay - 11


KẾT LUẬN

Có thể khẳng định rằng các quy định của LĐĐ 2003 về cầp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được xây dựng ngày càng đồng bộ và hoàn thiện. Xem xét các quy định của pháp luật kể từ LĐĐ 1987, LĐĐ 1993, Luật sửa đổi bổ sung năm 1998 và 2001 ta có thể thấy rõ sự chặt chẽ và tiến bộ trong công tác quản lý đất đai. Luật đất đai năm 2003 là sự hoàn thiện hơn khi các quy định mang tính khoa học và hợp lý. Các quy định mới về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã giải quyết được những vướng mắc trên thực tế đồng thời đã đáp ứng được nhu cầu quản lý Nhà nước về đất đai trong tình hình mới.

Luật đất đai đã có nhiều quy định mới: Mở rộng về đối tượng và điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho mọi loại đất, mọi chủ sử dụng ổn định với quy hoặc miễn giảm nghĩa vụ tài chính khi cấp giấy; cải cách thủ tục theo mô hình “ Một cửa” gắn kết thủ tục giao đất, thuê đất. chuyển quyền sử dụng đất thành một chu trình. Tất cả chỉ nhằm mục đích tạo sự thuận lợi cho người sử dụng đất mà cao hơn là hướng tới một sự an toàn pháp lý cho người dân khi tham gia thị trường quyền sử dụng đất.

Cùng với các nội dung mới Nhà nước đang có những chỉ đạo cụ thể để áp dụng thực tiễn có kết quả. Bên cạnh những thuậnlợi còn có nhiều khó khăn cần khắc phục để nhanh chóng hoàn thành cơ bản công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo tinh thần của luật. Muốn vậy,trước hết cần xây dựng hệ thống các quy phạm pháp luật về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thống nhất và hợp lý với người sử dụng đất. Nhà nước cần nhanh chóng hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước về đất đai, Trong đó chú trọng tới bộ máy tổ chức thực hiện và cán bộ địa chính. Bên cạnh đó những yếu tố liên quan về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như hệ thống bản đồ, hồ sơ địa chính, nghĩa vụ tài chính, kinh phí thực hiện cũng phải được thực hiện một cách đồng bộ.

Những quy định về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo luật đất đai 2003 đã có sự tiến bộ hơn song cũng cần được hoàn thiện hơn nữa. Áp dụng tốt các quy định này vào thực tiễn không chỉ mang lại lợi ích cho Nhà nước mà còn cần


thiết cho người dân. Bởi vậy hoạt động này cần được thực hiện nhanh chóng nhất là trong bối cảnh nhà nước ta chủ trương xây dựng thị trường quyền sử dụng đất chính quy./.


TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Ban chấp hành trung ương Đảng khoá IX , “Nghị quyết hội nghị lần thứ bảy về tiếp tục đổi mới chính sách pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước

2. Bộ tài nguyên môi trường (2007), “ Báo cáo tình hình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”;

3. Bộ tài chính (2009), “Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: để đẩy nhanh tiến độ và bớt gánh nặng cho người dân”, Thông báo tài chính số 126; http://www.mof.gov.vn/Default.aspx?tabid=612&ItemID=64639

4. Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường (2004), Quyết định số 24

/2004/QĐ-BTNMT ngày 01 tháng 11 năm 2004 ban hành quy định về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Hà Nội;

5. Chính phủ (2004), Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 về thu tiền sử dụng đất

6. Chính phủ, Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 hướng dẫn thi hành Luật đất đai;

7. Chính phủ (2006), Nghị định số 90/2006/NĐ-CP ngày 06/09/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật nhà ở;

8. Chính phủ (2006), Nghị định số 17/2006/NĐ-CP về việc thi hành Luật Đất đai và sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai;

9. Chính phủ (2008), Nghị quyết số 02/2008/NQ-CP ngày 09/01/2008 giao cho Bộ Tài nguyên & Môi trường chủ trì phối hợp với Bộ Tư pháp và các Bộ, Ngành liên quản trình phương án sửa đổi Luật Đất đai và các Luật có liên quan đến cấp GCN;

10. Chính phủ (2007), Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/05/2007 quy định bổ sung về cấp GCNQSDĐ, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình


tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai;

11. Chính phủ (2009), Nghị định 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 về việc cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất;

12. Chính phủ (2004), Nghị định 172/2004/NĐ – CP ngày 29/09/2004 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã thành phố thuộc tỉnh

13. Đại học luật Hà Nội (2008), Giáo trình, Nhà xuất bản công an nhân dân;

14. Lê Quang Trí (2005), “Giáo trình quy hoạch sử dụng đất”, Đại học Cần Thơ;

15. Đặng Anh Quân (2006), “ Một số suy nghĩ về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”, Tạp chí KHDS số 2 (33)/2006;

16. Quốc hội (1992), Hiến pháp 1992, Hà Nội;

17. Quốc hội (2005), Bộ luật dân sự, Hà Nội;

18. Quốc hội (2005), Luật nhà ở 2005, Hà Nội;

19. Quốc hội (2003), Luật đất đai 2003, Nhà xuất bản lao động;

20. Quốc hội (2009), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản của Luật xây dựng số 16/2003/QH11, Luật đấu thầu số 61/2005/QH11, Luật doanh nghiệp số 60/2005/QH11, Luật đất đai số 13/2003/QH11 và Luật nhà ở số 56/2005/QH11;

21. Quốc hội (2007), Nghị quyết số 07/2007/QH12 ngày 12/11/2007 về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2008;

22. Nguyễn Khắc Thái Sơn (2007), “ Giáo trình quản lý Nhà nước về đất đai’, Nhà xuất bản nông nghiệp;

23. Thủ tướng chính phủ (2004), Chỉ thị số 09/CT-TTg ngày 09/02/2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thi hành Luật đất đai 2003;

24. Tổng cục địa chính (2001), “Báo cáo tổng kết Hội nghị tổng kết ngành địa chính năm 2001 và triển khai nhiệm vụ công tác năm 2002


25. UBND thành phố Hà Nội (2009), Quyết định số 10/2009/QĐ-UBND ngày 09/01/2009 về việc thu các khoản lệ phí địa chính liên quan đến việc cấp mới, đăng ký biến động, cấp đổi….giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Websites:

26 www.mof.gov.vn

27 www.saigonhouses.com

28 www.trangvangnhadat.vn

Xem tất cả 95 trang.

Ngày đăng: 24/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí