CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU
1.1. Bối cảnh nghiên cứu
Trong những năm qua, do tác động của nền kinh tế thị trường cùng với các chính sách mới về xây dựng và sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với công tác quy hoạch, đầu tư cải tạo, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, các khu công nghiệp, đô thị nước ta phát triển nhanh cả về số lượng lẫn chất lượng. Diện mạo trên toàn quốc đã có sự thay đổi rõ rệt, đáp ứng được sự phát triển kinh tế xã hội của cả nước, đồng thời trở thành những nhân tố tích cực của quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Việc đầu tư phát triển ngành xây dựng là tất yếu để đạt được mục tiêu trên. Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng cao, tỉ trọng của ngành xây dựng trong nền kinh tế cũng tăng lên theo từng năm. Cùng với sự ổn định về chính trị, nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển và có uy tín trên trường thế giới. Ngành xây dựng đã đóng góp một phần đáng kể và có vị trí quan trọng trong việc phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, tình trạng đầu tư dàn trải, hiệu quả đầu tư thấp, thất thoát vốn ngân sách nhà nước, chậm trễ thời gian hoàn thành đưa công trình vào sử dụng, còn chưa chặt chẽ trong việc quản lý đầu vào và đầu ra sản phẩm dẫn đến tình trạng công trình xây dựng kém chất lượng, thời gian thi công kéo dài so với tiến độ đã đề ra, gây thiệt hại kinh tế và thời gian cho các bên. Mỗi năm, tổng đầu tư toàn xã hội cho ngành xây dựng chiếm lượng không nhỏ cụ thể: tính chung trong giai đoạn 2001 - 2005, tổng vốn đầu tư công đạt khoảng 286 nghìn tỉ đồng, chiếm trên 23% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; trong giai đoạn 2006 - 2010 ước đạt trên 739 nghìn tỉ đồng, khoảng trên 24% tổng vốn đầu tư toàn xã hội ,Vũ Đức Thắng (2013).
Theo số liệu Tổng hội Xây dựng đưa ra thì có đến hơn 99% các dự án xây dựng, trong đó chủ yếu là dự án trọng điểm Quốc gia bị chậm tiến độ (Thu Hằng, 2011). Thực tế nhiều công trình kéo dài 5- 7 năm, nguyên nhân dẫn đến chậm trễ chủ yếu do cơ chế, chính sách về đền bù giải phóng mặt bằng (GPMB) còn bất cập liên quan đến quyền lợi trực tiếp của người dân “bị giải phóng mặt bằng”;cụ thể giá đền bù thiếu nhất quán và không phù hợp; khu tái định cư không bằng nơi ở cũ; các
tổ chức tư vấn, lập phương án GPMB, các Ban GPMB không chuyên nghiệp, lúng túng; các chế tài còn chưa đồng bộ và chưa đủ mạnh.Bên cạnh đó là giai đoạn đấu thầu và thực hiện thi công có rất nhiều công trình đấu thầu kéo dài xảy ra chủ yếu ở công trình vốn Nhà nước; hiện tượng cục bộ, địa phương, nể nang trong tổ chức lựa chọn nhà thầu (kể cả đấu thầu và chỉ định thầu). Trong khi đó, những công trình vốn tư nhân công tác đấu thầu cực kỳ đơn giản và gọn nhẹ.
Ngoài vấn đề năng lực nhà thầu, hiện nay chênh lệch do trượt giá quá lớn so với hợp đồng ký ban đầu dẫn đến nhiều nhà thầu thua lỗ. Do đó, họ cố tình tìm cách kéo dài tiến độ vì càng làm càng lỗ. Bên cạnh những nguyên nhân trên, một nguyên nhân khác dẫn đến hầu hết các công trình chậm tiến độ là do vốn không được đảm bảo;hiện tượng phân bổ vốn dàn trải vẫn phổ biến, trình tự, thủ tục cấp vốn, thanh toán chậm trễ dẫn đến tiến độ thi công kéo dài. Thực tế, chỉ trừ một số dự án trọng điểm còn tuyệt đại đa số dự án triển khai chậm do nguồn vốn thực hiện không đủ, chậm quyết toán. Bên cạnh đó, trình độ, năng lực của các chủ thể tham gia dự án từ người quyết định đầu tư, chủ đầu tư các nhà thầu tư vấn, xây lắp còn hạn chế, bất cập so với tốc độ phát triển nhanh, quá nóng.
Có thể bạn quan tâm!
- Các yếu tố gây chậm tiến độ các dự án công trình của Sở Xây dựng Long An - 1
- Tổng Hợp Các Yếu Tố Của Các Nghiên Cứu Nước Ngoài
- Tổng Hợp Các Yếu Tố Trong Bảng Hỏi Chính Thức
- Các Đối Khảo Sát Phân Theo Vai Trò Liên Quan Đến Dự Án
Xem toàn bộ 84 trang tài liệu này.
Theo báo cáo của Sở Xây dựng Long An trong giai đoạn từ 2010 - 2015 số dự án do Sở Xây dựng làm chủ đầu tư trễ tiến độ lên đến 94,40%, trong đó dự án trễ tiến độ cao nhất là 120% và dự án trễ tiến độ thấp nhất là 5,6%, Sở Xây dựng Long An (2015). Nguyên nhân chủ yếu theo đánh giá là do năng lực của nhà thầu yếu về tài chính, các nhà thầu được trúng thầu thi công cùng lúc nhiều dự án, năng lực đơn vị tư vấn và quản lý chủ đầu tư yếu, khối lượng dự toán không chính xác khi triển khai thực hiện dự án điều chỉnh thiết kế, dự toán và chậm phê duyệt phần điều chỉnh của chủ đầu tư.
Các dự án khi chậm tiến độ sẽ gây thiệt hại và lãng phí vô cùng lớn. Khoảng 40% GDP cả nước được dành cho các dự án đầu tư xây dựng bao gồm sự tham gia tài trợ của khu vực nhà nước, doanh nghiệp, Nguyễn Dũng (2016). Tại Việt Nam, chậm tiến độ trong các dự án đầu tư xây dựng công trình là một vấn đề mà gần đây các phương tiện thông tin đại chúng thường hay đề cập. Chậm tiến độ trong dự án
xây dựng mang lại rất nhiều hậu quả. Đối với chủ đầu tư, chậm tiến độ có thể làm phát sinh chi phí như những chi phí phát sinh do lãi vay ngân hàng, chi phí thời gian vì dự án kéo dài và các ảnh hưởng khác. Đối với nhà thầu thi công, chậm tiến độ đồng nghĩa với chi phí tăng cao trong đó có thể là thời gian làm việc dài hơn, gia tăng các chi phí nhân công, chi phí nguyên vật liệu, chi phí thiết bị, mất uy tín trong kinh doanh và các ảnh hưởng xấu. Đối với xã hội, việc chậm hoàn thành theo tiến độ dẫn đến đình trệ sản xuất của người dân và doanh nghiệp khu vực triển khai dự án, cơ sở hạ tầng phục vụ cho xã hội, người dân không đáp ứng,... ảnh hưởng đến kế hoạch và mục tiêu phát triển của địa phương.
Vậy làm thế nào để cải thiện tiến độ hoàn thành các dự án đầu tư xây dựng cả nước nói chung cũng như các dự án của Sở Xây dựng Long An làm chủ đầu tư nói riêng là vấn đề cấp thiết cần sớm được giải quyết. Cũng đã có rất nhiều nguyên nhân được xác định, tuy vậy, để giải quyết đồng thời các vấn đề gây chậm trễ tiến độ là khó khả thi bởi cần có thời gian và nguồn lực. Do đó, việc tiến hành xác định, đánh giá mức độ ảnh hưởng của từng nhóm nguyên nhân đến việc chậm trễ tiến độ của các dự án là cơ sở cho việc xác định các nhiệm vụ ưu tiên trong ngắn hạn cũng như kế hoạch giải quyết cụ thể trong dài hạn.
Từ những thực trạng trên, với vai trò là người quản lý bộ phận chuyên giám sát, theo dõi việc triển khai thực hiện các dự án xây dựng trên địa bàn của tỉnh Long An, tôi đã quyết định thực hiện đề tài "Các yếu tố gây chậm tiến độ các dự án công trình của Sở Xây dựng Long An“ vừa để làm luận văn thạc sĩ cho chương trình cao học Quản lý Công, vừa để phục vụ cho công tác quản lý, giải quyết các vấn đề liên quan đến chậm trễ tiến độ của các dự án trên địa bàn tỉnh Long An.
1.2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
Mục tiêu của việc nghiên cứu là xác định các nguyên nhân gây chậm trễ tiến độ các dự án đầu tư xây dựng do Sở Xây dựng Long An làm chủ đầu tư, cũng như thực trạng của từng nhóm nguyên nhân. Kết quả nghiên cứu là cơ sở để đề xuất các giải pháp nhằm cải thiện tiến độ hoàn thành các dự án đầu tư xây dựng do Sở Xây dựng Long An làm chủ đầu tư, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của các cơ quan
nhà nước trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Để đạt được mục tiêu như trên, đề tài hướng đến việc trả lời hai câu hỏi sau:
Thứ nhất, đâu là những nguyên nhân chính ảnh hưởng đến sự chậm trễ tiến độ của các dự án đầu tư xây dựng công trình trên địa bàn tỉnh Long An?
Thứ hai, những giải pháp nào có thể giúp cải thiện tiến độ các dự án đầu tư xây dựng công trình trên địa bàn tỉnh Long An?
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các yếu tố ảnh hướng đến tiến độ hoàn thành dự án trên địa bàn tỉnh Long An mà cụ thể hơn là ảnh hưởng đến sự chậm trễ tiến độ của các dự án do Sở Xây dựng Long An làm chủ đầu tư.
Trong giới hạn của luận văn này, tác giả chỉ tập trung vào sự chậm trễ tiến độ của các dự án đầu tư xây dựng công trình Sở Xây dựng Long An làm chủ đầu tư giai đoạn từ 2010 - 2015. Trong đó các nhân tố gây chậm trễ chỉ xác định trong giai đoạn từ khi hợp đồng thực hiện dự án được ký kết cho đến khi dự án hoàn thành và đưa vào sử dụng. Công tác đền bù giải phóng mặt bằng cũng là một trong những nguyên nhân chính ảnh hưởng đến việc hoàn thành dự án so với nhu cầu, kế hoạch và đã được xác định từ thực nghiệm cũng như nhiều công trình nghiên cứu khác nên trong phạm vi luận văn này, tác giả không thực hiện lại việc xem xét các yếu tố trên. Mặt khác, đây là yếu tố bị ảnh hưởng bởi nhiều nguyên nhân cả khách quan lẫn chủ quan, khó có thể can thiệp trong bối cảnh nguồn lực tài chính của khu vực công có nhiều hạn chế nên kết quả nghiên cứu sẽ không hướng đến các giải pháp có tính khả thi cao.
Với phạm vi nghiên cứu như trên, các chủ thể liên quan đến tiến độ hoàn thành của các dự án gồm Chủ đầu tư, Nhà thầu thi công, các Đơn vị tư vấn và các Sở ban ngành liên quan là đối tượng chính được tập trung phân tích và xem xét.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện theo 2 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính với 6 chuyên gia nhằm xác định các yếu tố gây chậm trễ tiến độ các dự án đầu tư xây dựng do Sở
Xây dựng Long An làm chủ đầu tư và hiệu chỉnh thang đo nhằm xây dựng bảng hỏi chính thức.
- Giai đoạn 2: Phương pháp định lượng được áp dụng để kiểm tra độ tin cậy của các thang đo, phân tích thống kê so sánh từng thang đo các yếu tố ảnh hưởng đến sự chậm trễ tiến độ các dự án đầu tư xây dựng do Sở Xây dựng Long An làm chủ đầu tư và cuối cùng tác giả sẽ sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu để làm rõ thực trạng nguyên nhân vấn đề và kiến nghị các giải pháp có cơ sở nhằm cải thiện tiến độ hoàn thành dự án công của Tỉnh.
1.5. Bố cục luận văn
Luận văn được thực hiện gồm năm chương. Chương 1 tập trung vào việc xác định vấn đề, mục tiêu, câu hỏi và giới hạn phạm vi nghiên cứu. Tiếp đến trong Chương 2 là phần tổng hợp các cơ sở lý thuyết, các nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến luận văn. Chương 3 là phần đề xuất khung phân tích dựa trên phần tổng quan cơ sở lý thuyết trong Chương 2 và trình bày cụ thể phương pháp và các bước tiến hành nghiên cứu để đạt được mục tiêu đề ra. Các kết quả nghiên cứu chính rút ra được trình bày trong Chương 4 và cuối cùng là phần kết luận cũng như giải pháp để cải thiện việc chậm trễ tiến độ được trình bày trong Chương 5.
CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1. Một số khái niệm liên quan Dự án đầu tư xây dựng
Dự án đầu tư xây dựng là tập hợp các đề xuất có liên quan đến việc sử dụng vốn để tiến hành hoạt động xây dựng xây dựng mới, sửa chữa, cải tạo công trình xây dựng nhằm phát triển, duy trì, nâng cao chất lượng công trình hoặc sản phẩm, dịch vụ trong thời hạn và chi phí xác định. Ở giai đoạn chuẩn bị dự án đầu tư xây dựng, dự án được thể hiện thông qua báo cáo nghiên cứu tiền khả thi đầu tư xây dựng, báo cáo nghiên cứu khả thi đầu tư xây dựng hoặc báo cáo kinh tế - kỹ thuật đầu tư xây dựng, Luật Xây dựng (2014).
Tiến độ dự án và sự chậm trễ tiến độ dự án
Tiến độ dự án là khoảng thời gian thực hiện dự án từ khi bàn giao mặt bằng thi côngđến khi kết thúc hoàn thành dự án bàn giao đưa vào sử dụng.
Chậm tiến độ trong dự án xây dựng có thể được định nghĩa là sự vượt quá thời gian so với thời gian hoàn thành đã được xác định trong hợp đồng hay vượt quá thời gian mà các bên liên quan đã đồng ý với nhau về thời gian hoàn thành dự án, Assaf (1995).
Xét về tính chất, có thể chia làm 2 loại chậm tiến độ nghiêm trọng và chậm tiến độ không nghiêm trọng (Critical và Non-Critical delay). Độ nghiêm trọng của chậm tiến độ được xét dựa trên chậm tiến độ có hay không ảnh hưởng đến toàn bộ tiến độ của dự án. Thực tế, có nhiều chậm tiến độ không ảnh hưởng đến đến sự hoàn thành của toàn bộ dự án hay các mốc quan trọng, các chậm tiến độ này được xem là chậm tiến độ không quan trọng. Chậm tiến độ có thể gây ảnh hưởng đến tiến độ của toàn dự án được xem là chậm tiến độ nghiêm trọng.
Xét về chủ thể gây ra chậm tiến độ, có 3 loại trễ tiến độ, Alaghbari (2005). Thứ nhất, trễ tiến độ do chủ đầu tư (Compensable delays): các nguyên nhân chủ yếu liên quan đến việc thay đổi trong thiết kế hoặc cung cấp các thông tin cần thiết liên quan đến bản vẽ thiết kế,...Đối với hình thức này, giải pháp đề xuất là nên đền bù
chi phí phát sinh cho nhà thầu và tăng thời hạn hoàn thành hợp đồng. Thứ hai, trễ tiến độ không thể bỏ qua (Non-excusable delays): nguyên nhân chính gây nên sự chậm trễ là do các nhà thầu chính hoặc nhà thầu phụ. Trong trường hợp này, nhà thầu sẽ không nhận được đền bù hay gia hạn thời gian hoàn thành hợp đồng từ chủ đầu tư, thay vào đó, nhà thầu phải bố trí, tăng mật độ làm việc theo đúng thời hạn đã cam kết trong hợp đồng. Thứ ba, là các tình huống trễ tiến độ bất khả kháng (Excusable delays): nguyên nhân chính trong trường hợp này đến từ các vấn đề phát sinh không lường trước do các yếu tố bên ngoài gây ra như điều kiện thời tiết, thiên tai, .... Trong trường hợp này, giải pháp được đề xuất là nên gia hạn thời gian hoàn thành dự án nhưng không có sự hỗ trợ thêm kinh phí từ bên nào, giải pháp tương tự như đề xuất của Ahmed và cộng sự (2003).
Trong một quan điểm khác về các chủ thể gây ra nguyên nhân làm chậm tiến độ, Tumi và cộng sự (2009) phân chia thành 2 dạng chậm tiến độ cơ bản là chậm tiến độ có thể tha thứ được và chậm tiến độ không thể tha thứ được.
Chậm tiến độ không thể tha thứ được là dạng chậm tiến độ gây ra do nhà thầu không tuân thủ hợp đồng đã được thỏa thuận hoặc do các bên cung cấp dịch vụ cho nhà thầu gây ra chậm tiến độ. Nhà thầu thường phải chịu trách nhiệm chính và phải đền bù khoảng thời gian chậm trễ cho chủ đầu tư. Nguyên nhân gây ra chậm tiến độ loại này có thể là do thầu phụ chậm tiến độ, nhà thầu quản lý công trình không hiệu quả, tài chính của nhà thầu không đáp ứng được yêu cầu, thiếu lao động, không đáp ứng được kế hoạch thi công đề ra và các nguyên nhân khác.
Chậm tiến độ có thể tha thứ được là chậm tiến độ gây ra bởi việc hành động hay không hành động của chủ đầu tư. Khi nhà thầu gặp dạng nhân tố gây ra chậm tiến độ loại này, họ có thể kéo dài thời gian thi công hoặc được đền bù do sự chậm tiến độ vì dạng chậm tiến độ này làm nhà thầu phát sinh các chi phí thêm. Sự chậm tiến độ này thường được gây ra bởi các tình huống không lường được và không phải là lỗi của nhà thầu như: thiên tai, động đất, dịch bệnh, lũ lụt,…
Chủ đầu tư
Chủ đầu tư là cơ quan, tổ chức, cá nhân sở hữu vốn, vay vốn hoặc được giao trực tiếp quản lý, sử dụng vốn để thực hiện hoạt động đầu tư xây dựng dự án, Luật Xây dựng (2014). Trong phạm vi của nghiên cứu này, chủ đầu tư chủ yếu là Sở Xây dựng tỉnh Long An.
Nhà thầu xây dựng bao gồm:
Nhà thầu trong hoạt động đầu tư xây dựng (sau đây gọi là nhà thầu) là các tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện năng lực hoạt động xây dựng, năng lực hành nghề xây dựng khi tham gia quan hệ hợp đồng trong hoạt động đầu tư xây dựng, Luật Xây dựng (2014). Trong phạm vi của nghiên cứu này, đối tượng nhà thầu quan tâm là những đối tượng đã từng tham gia ít nhất một dự án đầu tư xây dựng do Sở Xây dựng Long An làm chủ đầu tư trong giai đoạn 2010 - 2015.
Nhà thầu chính là nhà thầu chịu trách nhiệm tham dự thầu, đứng tên dự thầu và trực tiếp ký, thực hiện hợp đồng nếu được lựa chọn. Nhà thầu chính có thể là nhà thầu độc lập hoặc thành viên của nhà thầu liên danh.
Nhà thầu phụ là nhà thầu tham gia thực hiện gói thầu theo hợp đồng được ký với nhà thầu chính. Nhà thầu phụ đặc biệt là nhà thầu phụ thực hiện công việc quan trọng của gói thầu do nhà thầu chính đề xuất trong hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất trên cơ sở yêu cầu ghi trong hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu.
Nhà thầu tư vấn
Nhà thầu tư vấn là nhà thầu tham gia đấu thầu cung cấp các sản phẩm đáp ứng yêu cầu về kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn, Luật Xây dựng (2014).
2.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu nước ngoài
Nghiên cứu của Mansfield và ctg (1994) cho thấy nguyên nhân trễ tiến độ gồm: vốn tài trợ cho dự án (tức năng lực tài chính), vấn đề thanh toán, năng lực quản lý của các bên, thay đổi điều kiện môi trường tại điểm thi công, thiếu hụt nguồn nguyên liệu và phương án triển khai thiếu hiệu quả. Nghiên cứu của Chan và Kumaraswamy (1998) cũng cho kết luận tương tự.