Vai Trò Của Tín Dụng Ngân Hàng Đối Với Dnnvv


4. Hungary

Siêu nhỏ Nhỏ

Vừa

1-10

11-50

51-250

Không quy định

Không quy định

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 101 trang tài liệu này.

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng vay vốn ngân hàng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại ngân hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu Việt Nam trên địa bàn Tp.HCM - 3

Nguồn: 1)APEC, 1998. Doanh nghiệp vừa và nhỏ; 2) UN/ECE, 1999. Định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ; 3) OECD, 2000. Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ

Bảng 2.2 cho thấy, hầu hết các quốc gia đều lấy tiêu chí số lao động bình quân làm cơ sở quan trọng để phân loại doanh nghiệp theo quy mô. Điều này là hợp lý hơn so với việc lựa chọn các tiêu chí khác như doanh thu, vốn... là các chỉ tiêu có thể lượng hóa được bằng giá trị tiền tệ. Các tiêu chí như doanh thu, vốn tuy rất quan trọng nhưng thường xuyên chịu sự tác động bởi những biến đổi của thị trường, sự phát triển của nền kinh tế, tình trạng lạm phát... nên thiếu sự ổn định trong việc phân loại doanh nghiệp. Điều này giải thích tại sao tiêu chí số lao động bình quân được nhiều quốc gia lựa chọn, tiêu chí này thường có tính ổn định lâu dài về mặt thời gian, lại thể hiện được phần nào tính chất, đặc thù của ngành, lĩnh vực kinh doanh mà doanh nghiệp đang tham gia.

Số liệu ở bảng 2.2 cũng cho thấy, đa số các quốc gia chỉ sử dụng 1 trong 3 tiêu thức đánh giá trên, đặc biệt là nhóm các nước kinh tế đang chuyển đổi. Một số quốc gia khác sử dụng kết hợp 2 trong 3 tiêu thức nói trên. Một số ít quốc gia sử dụng kết hợp cả 3 tiêu thức số lao động, vốn và doanh thu.

* Tại Việt Nam

Ở Việt Nam, theo Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ về hỗ trợ giúp phát triển DNNVV định nghĩa: “Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp lệnh hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”.

Sau đó, ngày 30/06/2009, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 56/2009/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNNVV. Nghị định này có hiệu lực từ ngày 20/08/2009 và thay thế cho Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001. Theo đó, DNNVV là cơ sở kinh doanh đã


đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên), cụ thể như sau:

Bảng 2.3: Phân loại DNNVV theo lĩnh vực kinh tế



Ngành/Nghề

DN siêu nhỏ


DN nhỏ


DN vừa

Số lao

động (người)

Tổng nguồn vốn (tỷ đồng)

Số lao

động (người)

Tổng nguồn vốn (tỷ đồng)

Số lao động (người)

I. Nông, lâm nghiệp và thủy sản


<10


<20


11 – 200


20 – 100


201 – 300

II. Công nghiệp và xây dựng


<10


<20


11 – 200


20 – 100


201 – 300

III. Thương mại và dịch vụ


<10


<10


11 – 50


10 – 50


51 – 100

Nguồn: Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ

Như vậy, Việt Nam cũng như đa phần các nước trên thế giới đều sử dụng tiêu thức số lao động làm việc trong doanh nghiệp và tổng nguồn vốn để phân loại doanh nghiệp thành các doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa.

2.1.2. Vai trò của DNNVV trong nền kinh tế

Ở nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là tại các quốc gia đang phát triển, DNNVV luôn là nền tảng của nền kinh tế, chiếm tới 90% số lượng doanh nghiệp, tạo công ăn việc làm cho khoảng 50-70% lực lượng lao động, đóng góp từ 25-33% GDP hàng năm. Trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, các doanh nghiệp này chiếm tới 98% tổng số các


doanh nghiệp, tạo ra 60% việc làm của khu vực kinh tế tư nhân, đóng góp 30% giá trị xuất khẩu. Một số vai trò quan trọng của doanh nghiệp nhỏ và vừa đối với nền kinh tế:

Thứ nhất, Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vị trí rất quan trọng, chúng chiếm đa số về mặt số lượng trong tổng số các cơ sở sản xuất kinh doanh và ngày càng gia tăng mạnh. Ở hầu hết các quốc gia, doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm khoảng trên dưới 90% tổng số các doanh nghiệp. Tốc độ gia tăng các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhanh hơn các doanh nghiệp lớn. Hiện nay, chưa có số liệu thống kê về doanh nghiệp vừa và nhỏ một cách chính thức, nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam cũng chiếm khoảng 80-90% tổng số các doanh nghiệp.

Thứ hai, Đóng góp phần lớn vào tổng sản phẩm quốc nội và tăng trưởng kinh tế. Doanh nghiệp nhỏ và vừa tuy có doanh thu, quy mô vốn thấp hơn so với các doanh nghiệp lớn nhưng đây là thành phần chiếm số đông trong các doanh nghiệp của nền kinh tế vì vậy đóng góp vào tổng sản phẩm quốc nội rất đáng kể. Đồng thời các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, đặc biệt đối với các nền kinh tế kém phát triển. Các số liệu thực tế cho thấy rằng nhiều nền kinh tế trên thế giới trong giai đoạn tăng trưởng thì thành phần doanh nghiệp nhỏ và vừa thường có sự gia tăng đáng kể. Đài Loan tăng trưởng nhanh cũng dựa trên nền tảng của khối doanh nghiệp nhỏ và vừa, giai đoạn tăng trưởng vàng của Colombia từ cuối thập niên 1960 đến hết thập niên 1970 đi cùng với sự tăng trưởng nhanh ở khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tổng số lao động trực tiếp trong các DNNVV là trên 12 triệu lao động, chiếm trên 40% lực lượng lao động của cả nước và tạo ra hơn 1 triệu việc làm mới mỗi năm (Hồ Sỹ Hùng, 2007).

Thứ ba, Tác động lớn nhất của doanh nghiệp vừa và nhỏ là giải quyết một số lượng lớn việc làm cho dân cư, làm tăng thu nhập cho người lao động, góp phần xoá đói giảm nghèo. Xét theo luận điểm tạo công ăn việc làm cho người lao động, thì khu vực này vượt trội hẳn so với khu vực khác, góp phần giải quyết nhiều vấn đề an sinh xã hội. Ở hầu hết các nước doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo việc làm cho khoảng từ 50- 80% lao


động trong các nghành công nghiệp và dịch vụ. Đặc biệt trong nhiều thời kỳ các doanh nghiệp lớn sa thải công nhân thì khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ lại thu hút thêm nhiều lao động hoặc có tốc độ thu hút lao động mới cao hơn khu vực doanh nghiệp lớn. Theo báo cáo của Tổ chức Lao Động Quốc Tế năm 2013, doanh nghiệp nhỏ và vừa cung cấp hai phần ba số việc làm tại các quốc gia đang phát triển ở Châu Phi, Châu Á và Châu Mỹ La Tinh và 80% số việc làm tại các quốc gia có thu nhập thấp. Tại Việt Nam, các doanh nghiệp nhỏ và vừa cung cấp khoảng 85% nhu cầu việc làm cho lực lượng lao động (Lê Xuân Bá, 2007).

Thứ tư, Khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa thu hút được khá nhiều vốn ở trong dân. Do tính chất nhỏ lẻ, dễ phân tán đi sâu vào dân cư và yêu cầu về số lượng vốn ban đầu không nhiều, cho nên các doanh nghiệp nhỏ và vừa có tác dụng rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn nhỏ lẻ, nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư đầu tư vào sản xuất kinh doanh, chúng tạo lập dần tập quán đầu tư vào sản xuất kinh doanh và hình thành các khu vực để thực hiện có kết quả vấn đề huy động vốn trong dân cư.

Thứ năm, Các doanh nghiệp nhỏ và vừa có vai trò to lớn đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đối với khu vực nông thôn, các DNNVV đã thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm cho công nghiệp phát triển mạnh, đồng thời thúc đẩy các ngành thương mại - dịch vụ phát triển. Sự phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng góp phần làm tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ và làm thu hẹp dần tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Có thể nói rằng, các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã góp phần đa dạng hoá cơ cấu công nghiệp.

Thứ sáu, Sự phát triển của các DNNVV ở nông thôn sẽ thu hút những người lao động chưa có việc làm và có thể thu hút lượng lớn lao động thời vụ trong các kỳ nông nhàn vào hoạt động sản xuất - kinh doanh, chuyển dịch lao động làm nông nghiệp sang làm công nghiệp hoặc dịch vụ, qua đó góp phần hình thành những khu vực tập trung các cơ sở công nghiêp và dịch vụ ngay tại nông thôn, tiến dần lên hình thành những thị tứ, thị trấn.


Thứ bảy, Đóng góp vào quá trình đổi mới công nghệ. Do áp lực cạnh tranh ngày càng khốc liệt nên các DNNVV phải thường xuyên đổi mới, cải tiến công nghệ để tạo ra sự khác biệt để có thể thành công trên thương trường. Đồng thời với sự linh hoạt của mình, các DNNVV luôn đi tiên phong trong việc áp dụng những phát minh, cải tiến, sáng kiến kỹ thuật.

Tóm lại, có thể thấy sự đóng góp của DNNVV cho nền kinh tế quốc dân là khá lớn, đồng thời các DNNVV ngày càng khẳng định được vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế. Tuy nhiên, trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt, các DNNVV với những hạn chế về quy mô, trình độ công nghệ, vốn… phải đối mặt với rất nhiều thách thức, khó khăn.

2.2. TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA‌‌

2.2.1 Cơ sở lý luận chung về tín dụng ngân hàng

2.2.1.1 Khái niệm và đặc điểm tín dụng ngân hàng

Tín dụng ngân hàng là một giao dịch về tài sản giữa bên cho vay và bên đi vay, trong đó các ngân hàng, các tổ chức tín dụng vừa là bên đi vay vừa là bên cho vay. Bên cho vay chuyển giao tạm thời quyền sử dụng tài sản cho bên đi vay trong thời gian thỏa thuận, bên đi vay có nghĩa vụ hoàn trả lại vô điều kiện đầy đủ vốn và lãi cho bên cho vay khi đến thời hạn thanh toán.

Theo khoản 14 và 16 điều 4 Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12:


Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.

Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao


cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả c ả gốc và lãi.

Tín dụng ngân hàng chứa đựng một số đặc điểm như sau:

Đặc điểm nổi bật của nghiệp vụ tín dụng đó là tính hoàn trả. Để có thể cung ứng vốn tín dụng kịp thời, ngân hàng phải huy động vốn từ các khách hàng trong nền kinh tế; vì vậy việc thu hồi vốn tín dụng từ việc hoàn trả nợ vay là yêu cầu tất yếu của hoạt động tín dụng của NHTM.

Khi chuyển giao vốn tín dụng, ngân hàng chỉ chuyển giao quyền sử dụng vốn cho khách hàng chứ không chuyển giao quyền sở hữu vốn. Khách hàng sử dụng vốn tín dụng phải hoàn trả nợ gốc kèm theo lãi. Tiền lãi phải trả chính là chi phí cho việc sử dụng vốn tín dụng.

Tín dụng là nghiệp vụ quan trọng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản có, mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho ngân hàng. Tuy nhiên đồng hành với thu nhập càng lớn thì rủi ro càng cao, nên hoạt động cấp tín dụng của NHTM hầu hết các nước trên thế giới đều phải có khung pháp lý và được ngân hàng trung ương kiểm soát chặt chẽ.

Tín dụng của NHTM đáp ứng nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân, hoạt động tín dụng của ngân hàng thâm nhập vào mọi lĩnh vực, ngành nghề, nên đòi hỏi các sản phẩm tín dụng ngày càng phong phú và đa dạng đáp ứng ngày càng cao nhu cầu của khách hàng.

Khi thực hiện nghiệp vụ tín dụng, các ngân hàng phải tuân thủ quy trình tín dụng, đồng thời mọi tác nghiệp của hoạt động tín dụng cần phải được kiểm tra, giám sát chặt chẽ, nhằm đảm bảo khách hàng trả nợ và lãi đúng hạn, hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng nợ xấu.


2.2.1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với DNNVV‌


Mặc dù việc cho vay các DNNNV của các Ngân hàng gặp phải những rủi ro nhất định nhưng vốn tín dụng ngân hàng đầu tư cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò rất quan trọng, nó chẳng những thúc đẩy sự phát triển khu vực kinh tế này mà thông qua đó tác động trở lại thúc đẩy hệ thống ngân hàng, đổi mới chính sách tiền tệ hoàn thiện các cơ chế chính sách về tín dụng, thanh toán ngoại hối… Đó chính là lý do tại sao trong một vài năm trở lại đây, các Ngân hàng đều tung ra các gói tín dụng ưu đãi dành riêng cho các DNNNV. Để thấy được vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, ta xét một số vai trò sau:

Thứ nhất, Tín dụng ngân hàng góp phần đảm bảo cho hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ được liên tục. Trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp luôn cần phải cải tiến kỹ thuật thay đổi mẫu mã mặt hàng, đổi mới công nghệ máy móc thiết bị để tồn tại đứng vững và phát triển trong cạnh tranh. Trên thực tế có rất ít doanh nghiệp có thể đảm bảo đủ 100% vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh. Vốn tín dụng của ngân hàng đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm máy móc thiết bị cải tiến phương thức kinh doanh. Từ đó góp phần thúc đẩy tạo điều kiện cho quá trình phát triển sản xuất kinh doanh được liên tục.

Thứ hai, Tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khi sử dụng vốn tín dụng ngân hàng, các doanh nghiệp phải tôn trọng hợp đồng tín dụng phải đảm bảo hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng hạn và phải tôn trọng các điều khoản của hợp đồng cho dù doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hay không. Do đó đòi hỏi các doanh nghiệp muốn có vốn tín dụng của ngân hàng phải có phương án sản xuất kinh doanh khả thi. Không chỉ thu hồi đủ vốn mà các doanh nghiệp còn phải tìm cách sử dụng vốn có hiệu quả, tăng nhanh chóng vòng quay vốn, đảm bảo tỷ suất lợi nhuận phải lớn hơn lãi suất ngân hàng thì mới trả được nợ và kinh doanh có lãi. Trong quá trình cho


vay ngân hàng thực hiện kiểm soát trước, trong và sau khi giải ngân buộc doanh nghiệp phải sử dụng vốn đúng mục đích và có hiệu quả.

Thứ ba, Tín dụng ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong nền kinh tế thị trường hiếm doanh nghiệp nào dùng vốn tự có để sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn vay chính là công cụ đòn bẩy để doanh nghiệp tối ưu hoá hiệu quả sử dụng vốn. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ do hạn chế về vốn nên việc sử dụng vốn tự có để sản xuất là khó khăn vì vốn hạn hẹp và nếu sử dụng thì giá vốn sẽ cao và sản phẩm khó được thị trường chấp nhận. Để hiệu quả thì doanh nghiệp phải có một cơ cấu vốn tối ưu, kết cấu hợp lý nhất là nguồn vốn tự có và vốn vay nhằm tối đa hoá lợi nhuận tại mức giá vốn bình quân rẻ nhất.

Thứ tư, Tín dụng ngân hàng góp phần tập trung vốn sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ . Cạnh tranh là một quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường, muốn tồn tại và đứng vững thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải chiến thắng trong cạnh tranh. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, do có một số hạn chế nhất định, việc chiếm lĩnh ưu thế trong cạnh tranh trước các doanh nghiệp lớn trong nước và nước ngoài là một vấn đề khó khăn. Xu hướng hiện nay của các doanh nghiệp này là tăng cường liên doanh, liên kết, tập trung vốn đầu tư và mở rộng sản xuất, trang bị kỹ thuật hiện đại để tăng sức cạnh tranh. Tuy nhiên để có một lượng vốn đủ lớn đầu tư cho sự phát triển trong khi vốn tự có lại hạn hẹp, khả năng tích luỹ thấp thì phải mất nhiều năm mới thực hiện được. Và khi đó cơ hội đầu tư phát triển không còn nữa. Như vậy có thể đáp ứng kịp thời, các doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ có thể tìm đến tín dụng ngân hàng. Chỉ có tín dụng ngân hàng mới có thể giúp doanh nghiệp thưc hiện được mục đích của mình là mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh.

Tóm lại, Tín dụng ngân hàng là một nguồn tài trợ rất cần thiết và không thể thiếu cho DNNVV phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong giai đoạn kinh tế khó khăn như hiện nay. Vì vậy việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với

Xem tất cả 101 trang.

Ngày đăng: 03/02/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí