Các giải pháp thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Quảng Bình hiện nay - 2


lược kinh doanh thường được triển khai chậm, có khi còn mất cả cơ hội do phải trình duyệt qua nhiều cửa, nhiều cấp quản lý.

- Hoạt động của doanh nghiệp nhà nước ngoài mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, vẫn có một số trường hợp lợi nhuận không phải là mục tiêu cơ bản quan trọng nhất (như đối với doanh nghiệp hoạt động công ích). Vì ngoài việc đầu tư phát triển để thu được lợi nhuận tối đa, các doanh nghiệp nhà nước đôi khi còn phải đầu tư vào các chương trình phù hợp với kế hoạch quốc gia hoặc hy sinh lợi nhuận để thực hiện các mục tiêu xã hội.

- Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò then chốt để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo và ổn định nền kinh tế - xã hội. Doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò tích cực như cung cấp những dịch vụ, cơ sở vật chất quan trọng cho nền kinh tế quốc dân, gánh lấy những rủi ro trong sự phát triển kinh tế; giải quyết một loạt các vấn đề kinh tế - xã hội, đồng thời tiến hành các chức năng đặc biệt như an ninh, quốc phòng…

Các đặc điểm nêu trên không những có ảnh hưởng và chi phối rất lớn đến công tác hoạch định cơ chế chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước mà còn ảnh hưởng đến cơ cấu tổ chức, quản lý doanh nghiệp nhà nước.


1.2. Sự cần thiết phải sắp xếp, đổi mới Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam


1.2.1. Những yếu kém, tồn tại của doanh nghiệp nhà nước cần được khắc phục


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 87 trang tài liệu này.

Thực hiện đường lối đổi mới, hơn 10 năm qua khu vực doanh nghiệp nhà nước đã có nhiều chuyển biến tích cực, thể hiện được vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, những mặt tích cực, trong quá trình phát triển doanh nghiệp nhà nước còn bộc lộ những yếu kém, tồn tại, chưa tương xứng với yêu cầu và năng lực sẵn có của doanh nghiệp nhà nước, cụ thể là:

- Thứ nhất, hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước còn thấp, chưa tương xứng với điều kiện và lợi thế có được; tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp nhà nước có biểu hiện giảm dần, nợ khó đòi ngày càng lớn.

Các giải pháp thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Quảng Bình hiện nay - 2


Về hiệu quả kinh doanh, mặc dù đã được đầu tư và ưu đãi nhiều từ phía Nhà nước, sau nhiều lần sắp xếp tổ chức lại và đổi mới cơ chế, nhưng các doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa chứng tỏ được hiệu quả của mình so với khu vực dân doanh, chưa đáp ứng được mong muốn của Đảng và Nhà nước, chưa tương xứng với tiềm lực và ưu đãi do Nhà nước dành cho.

Một doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả theo các tiêu chí hiện hành do Bộ Tài chính quy định, phải đạt các tiêu chuẩn: bảo toàn và phát triển được vốn, phải trích đủ khấu hao tài sản cố định; lương bình quân phải bằng hoặc vượt mức bình quân của doanh nghiệp cùng ngành nghề trên địa bàn; trả đầy đủ các khoản nợ đến hạn, nộp đủ các khoản thuế theo luật định; có lãi và trích lập đủ các quỹ doanh nghiệp như: dự phòng tài chính, trợ cấp mất việc làm, đầu tư phát triển, khen thưởng, phúc lợi. Nhưng theo số liệu báo cáo năm 2003 của Bộ Tài chính, trong tổng số 4.800 doanh nghiệp nhà nước thì số doanh nghiệp kinh doanh có lãi chiếm 77,2% (nếu tính theo chỉ tiêu hiệu quả chỉ chiếm 56%); số doanh nghiệp bị lỗ chiếm 13,5% (nếu tính đủ khấu hao giá trị tài sản cố định thì doanh nghiệp làm ăn thua lỗ còn lớn hơn), số còn lại là những doanh nghiệp nhà nước chưa có hiệu quả, nằm trong tình trạng khi lỗ, khi lãi và nếu có lãi cũng chỉ là tượng trưng.

Về khả năng cạnh tranh, các doanh nghiệp nhà nước rất yếu kém, biểu hiện rõ nhất là chất lượng sản phẩm, sức cạnh tranh yếu kém ngay tại thị trường nội địa, có nhiều ngành, sản phẩm của doanh nghiệp nhà nước đang được bảo hộ tuyết đối (ưu đãi, độc quyền) hoặc bảo hộ qua hàng rào thuế quan, trợ cấp (qua ưu đãi tín dụng và bù lỗ, miễn thuế…) nhưng các doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa chứng tỏ khả năng cạnh tranh của mình, thậm chí nhiều doanh nghiệp lại cố gắng luận chứng để Nhà nước tăng cường các biện pháp bảo hộ mạnh hơn để duy trì việc làm và thị phần. Theo số liệu nghiên cứu gần đây của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, các mặt hàng như thép, xi măng, phân bón, đồ điện dân dụng, kính xây dựng, sứ xây dựng, xe đạp, động cơ nổ... đều được bảo hộ bằng cả công cụ thuế quan và phi thuế quan dẫn đến giá trên thị trường Việt Nam cao hơn giá quốc tế từ 10-50% tùy mặt hàng. Khả năng cạnh tranh kém của các doanh nghiệp nhà nước thể hiện ngay trên thị trường nội địa: ở những ngành có khả năng sinh lợi, thị phần của các doanh nghiệp nhà nước có xu hướng giảm sút nhường chỗ cho khu vực đầu tư nước ngoài


và khu vực ngoài quốc doanh, khả năng cạnh tranh kém của các doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện Việt Nam đã và đang thực hiện cam kết hội nhập quốc tế có nguy cơ dẫn đến tình hình Nhà nước sẽ phải chịu chi phí rất lớn trong tương lai để trợ cấp, duy trì các doanh nghiệp nhà nước.

Tình trạng công nợ của doanh nghiệp nhà nước hiện nay là khá nghiêm trọng, nợ quá hạn, nợ khó đòi có xu hướng ngày càng tăng. Trong số 15,1% nợ quá hạn ngân hàng thương mại thì doanh nghiệp nhà nước chiếm 64,8%, gây khó khăn lớn đến hoạt động của ngân hàng. Theo Báo cáo của Bộ Tài chính đến hết năm 2003, tổng số nợ phải trả lên tới 207.778 tỷ đồng (tăng 10% so với năm 2002), trong đó nợ quá hạn là 10.716 tỷ đồng, nợ khó đòi là 2.748 tỷ đồng, tỷ lệ nợ này không phải là cao so với các nước trên thế giới nhưng khả năng thanh toán lại rất thấp. Thêm vào đó theo thống kê của Bộ Tài chính, ước tính lượng hàng hóa tồn kho tại các doanh nghiệp nhà nước hiện lên tới 45.600 tỷ đồng, bằng 12,7% tổng giá trị tài sản của khối doanh nghiệp nhà nước và 26,2% tổng giá trị tài sản lưu động, trong số hàng tồn kho trên có khoảng 1.155 tỷ đồng hàng hóa thuộc diện ứ đọng không cần dùng. Ngoài ra, lượng hàng hóa tồn kho lâu ngày bị kém, bị mất phẩm chất cũng lên tới 445 tỷ đồng. Do hầu hết hàng hóa tồn kho là vật tư, nguyên liệu có từ thời bao cấp, lỗi thời, không tiêu thụ được và để lâu, chất lượng giảm, kỹ thuật lạc hậu nên các doanh nghiệp cứ để treo chờ Nhà nước có biện pháp xử lý, điều này làm tăng gánh nặng cho chi phí bảo quản, cất giữ, gây ứ đọng vốn.

Thứ hai, doanh nghiệp nhà nước còn nhiều về số lượng, nhưng lại nhỏ về quy mô, dàn trải, chồng chéo về ngành nghề và lãnh thổ, địa phương nên dẫn đến tình trạng manh mún, hạn chế sự tích tụ, tập trung sản xuất.

Đến tháng 12/2003 cả nước có 4.800 doanh nghiệp với tổng số vốn nhà nước

139.293 tỷ đồng, bình quân mỗi doanh nghiệp là 29 tỷ đồng. Số doanh nghiệp nhà nước có vốn dưới 5 tỷ đồng còn chiếm tới 42,45%, trong khi đó số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm 29,89%; số doanh nghiệp nhà nước có vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm gần 50% tổng số doanh nghiệp tại 51 tỉnh, trong đó tại 14 tỉnh số doanh nghiệp nhà nước có vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm trên 75%, cũng tại các địa phương này, hơn 30% số doanh nghiệp


nhà nước có vốn dưới 1 tỷ đồng. Đặc biệt có 6 tỉnh con số này là hơn 50% (Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Kon Tum, Hà Tây, Nam Định và Hà Nam) [2].

Nhiều doanh nghiệp nhà nước cùng loại hoạt động trong tình trạng chồng chéo về ngành nghề kinh doanh, cơ quan quản lý và trên cùng một địa bàn, tạo ra sự cạnh tranh không đáng có trong khu vực doanh nghiệp nhà nước với nhau. Hiện nay trên một sân bay có đến 4 - 5 doanh nghiệp của Tổng Công ty Hàng không Việt Nam và Cục Hàng không cùng kinh doanh, vừa chồng chéo vừa cạnh tranh lẫn nhau. Các doanh nghiệp thuộc cùng một ngành kinh tế kỹ thuật rất phân tán, manh mún, trực thuộc nhiều cơ quan quản lý khác nhau, điển hình là trong các lĩnh vực thương mại, tư vấn, xây dựng; sự kết hợp, hợp tác giữa các doanh nghiệp nhà nước với nhau và với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác còn lỏng lẻo và chưa thành nề nếp.

Sự chồng chéo, trùng lặp về ngành nghề, về sản phẩm trong khi thị trường còn chưa được phát triển và sức mua của nhân dân chưa cao đã dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh. Đầu tư dàn trải trong khi nguồn vốn rất hạn hẹp, quan hệ cung cầu luôn không cân đối.

Thứ ba, trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu, đầu tư đổi mới công nghệ chậm đã hạn chế khả năng cạnh tranh và hội nhập của các doanh nghiệp.

Theo thống kê của Bộ Công nghiệp thì các doanh nghiệp nhà nước được trang bị máy móc thiết bị từ nhiều nước khác nhau (26% của Liên Xô cũ, 25% của các nước Đông Âu, 20% của các nước ASEAN và Bắc Âu, trên 18% là các nước khác, còn trong nước chỉ chế tạo chưa đến 12%) và thuộc các thế hệ khác nhau. Theo kết quả khảo sát 727 thiết bị và 3 dây chuyền nhập khẩu của 42 cơ sở của một ngành do Viện Khoa học Bảo hộ lao động thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tiến hành gần đây thì đến 76% thiết bị máy móc nhập khẩu thuộc thế hệ những năm 50 - 60, trên 70% đã hết khấu hao, gần 50% được tân trang lại.

Theo tài liệu của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường qua khảo sát nhiều doanh nghiệp thuộc 7 ngành thì máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất lạc hậu so với thế giới từ 20 đến 30 năm, trình độ cơ khí hóa, tự động hóa dưới 10%, mức độ hao mòn hữu


hình từ 30 đến 50%; có 38% tài sản cố định ở dạng thanh lý; 52% qua bảo dưỡng, sửa chữa, hậu quả là chưa tạo ra được các sản phẩm có chất lượng và khả năng cạnh tranh cao. Một số mặt hàng như cơ khí, sắt thép, xi măng, phân bón, kính xây dựng... có mức giá cao hơn hàng nhập cùng loại từ 20 đến 40% [6], [3].

Thứ tư, tình trạng thiếu việc làm và lao động dôi dư trong các doanh nghiệp nhà nước đang là một khó khăn lớn, ảnh hưởng đến việc đẩy nhanh quá trình đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước.

Theo số liệu của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thì hiện nay số lao động không có việc làm trong doanh nghiệp nhà nước khoảng 6% nhưng trong thực tế nhiều doanh nghiệp nhà nước có số lao động quá lớn so với yêu cầu như ở Tổng Công ty Than Việt Nam, Công ty Gang Thép Thái Nguyên, các nhà máy xi măng địa phương… Số lao động không có việc làm ở các địa phương chiếm tỷ lệ cao hơn, tiếp đến là ở các Bộ, ngành trung ương. Các địa phương có số lao động không có việc làm đặc biệt cao là Hải Dương (33%), Nam Định (27%), Hà Tĩnh (23%), Nghệ An (16%), Hải Phòng (15%). Tổng Công ty Than dôi dư lao động 30%, Tổng Công ty Lương thực miền Bắc dôi dư lao động 28%. Tổng Công ty Thép Việt Nam dôi dư lao động 12%.

Bên cạnh đó phần lớn người lao động không qua đào tạo hoặc đào tạo rất hạn chế nên đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất lao động của doanh nghiệp. Khi chuyển sang cơ chế tự chủ của doanh nghiệp thì Nhà nước chưa có cơ chế giám sát về tuyển dụng lao động, trả công lao động và gắn với hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên việc tuyển dụng lao động ở nhiều doanh nghiệp còn rất tùy tiện. Mặt khác, cơ chế chính sách hiện hành chưa làm cho doanh nghiệp giảm được số lao động dôi dư.

Ngoài ra, phần lớn doanh nghiệp nhà nước ở ta đều được hình thành từ cơ chế tập trung bao cấp hoặc tiếp quản những cơ sở sản xuất kinh doanh của chế độ cũ. Trong giai đoạn chuyển tiếp sang cơ chế mới đã cho phép các cơ quan, trường học, quận huyện được thành lập doanh nghiệp nhà nước để "tự cứu" nên hầu hết không đủ những điều kiện tối thiểu, trách nhiệm tài sản không được phân định rõ ràng, trang bị quá đơn sơ, đội ngũ giám đốc và công nhân không được đào tạo có hệ thống, phương hướng sản xuất kinh doanh


không gắn với yêu cầu lâu dài của thị trường. Mặt khác, kinh tế tư nhân còn quá non yếu nên doanh nghiệp nhà nước chưa thể điều chỉnh cơ cấu thật mạnh theo hướng tập trung vào những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế.

Thứ năm, tình trạng thiếu vốn của doanh nghiệp khá phổ biến. Các doanh nghiệp nhà nước do Nhà nước đầu tư thành lập nhưng vốn Nhà nước cấp không đủ ở mức tối thiểu cần thiết cho sản xuất kinh doanh. Có gần 60% số doanh nghiệp nhà nước không có đủ vốn pháp định theo Nghị định 50/CP của Chính phủ. Vốn Nhà nước trong các doanh nghiệp chỉ chiếm khoảng 60% tổng số vốn kinh doanh, trong đó các Tổng Công ty là 75%, các doanh nghiệp do Bộ, ngành quản lý là 45%; các doanh nghiệp do địa phương quản lý là gần 50%. Trên 50% doanh nghiệp chưa có đủ vốn lưu động cần thiết. Trong số vốn lưu động hiện có cũng chỉ huy động được cho kinh doanh khoảng 50%, còn lại dưới dạng vật tư mất phẩm chất, kém phẩm chất hoặc các khoản công nợ không có khả năng thu hồi, khoản lỗ chưa được bù đắp…

Những mặt hạn chế, yếu kém của doanh nghiệp nhà nước nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Có thể khái quát một số nguyên nhân chủ yếu sau:

* Nguyên nhân khách quan


Những vấn đề tồn tại của doanh nghiệp nhà nước có nguyên nhân khách quan là trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, cơ chế mới đang hình thành, cơ chế cũ chưa được xóa bỏ triệt để và nhiều vấn đề do lịch sử để lại nặng nề không thể giải quyết được trong một sớm một chiều.

Trừ một phần nhỏ số doanh nghiệp được thành lập trong giai đoạn đổi mới, còn đa phần các doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam là kế thừa từ thời bao cấp với các đặc trưng như công nghệ kỹ thuật lạc hậu, không có nguồn thay thế. Nguồn vốn khấu hao để tái sản xuất giản đơn cũng chưa đủ do chế độ trích nộp khấu hao vào ngân sách nhà nước những năm trước đây. Lao động vừa thiếu (thiếu lao động lành nghề), vừa thừa (thừa lao động không đáp ứng yêu cầu công việc) song chưa có cơ chế giải quyết. Cơ cấu doanh nghiệp nhà nước không hợp lý, không có khả năng tự đổi mới công nghệ cũng như ngành nghề...


Để thoát khỏi tình trạng đó, chúng ta cũng không thể dùng giải pháp phá đi làm lại bởi năng lực sản xuất của đất nước và đời sống của nhiều con người trông cậy vào đây mà chỉ có thể dùng biện pháp gỡ rối dần dần, vừa cải tổ, vừa ổn định kinh tế và xã hội, chính vì thế hiệu quả của hệ thống doanh nghiệp nhà nước chưa thể cải thiện nhanh.

* Nguyên nhân chủ quan


Thứ nhất, chưa nhận thức thống nhất và đầy đủ nội dung đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước; trong tổ chức thực hiện thiếu kiên quyết, không triệt để và chưa có giải pháp, chính sách cụ thể phù hợp với yêu cầu đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước.

Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và vị trí quan trọng của doanh nghiệp nhà nước chưa được nhận thức đầy đủ và thống nhất đã gây khó khăn lúng túng khi định hướng và thực hiện các biện pháp đổi mới doanh nghiệp nhà nước nhất là các biện pháp về sắp xếp, đa dạng hóa sở hữu doanh nghiệp nhà nước. Quá trình sắp xếp vẫn còn mang tính chất hành chính, chưa gắn với cơ chế điều chỉnh của thị trường, với Luật phá sản, chưa quan tâm đầy đủ đến yếu tố chất lượng, hiệu quả và khả năng hội nhập nên kết quả còn nhiều hạn chế. Ttrong khi không đủ khả năng bảo đảm vốn tối thiểu cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động nhưng nhiều ngành, địa phương cho rằng vị trí của doanh nghiệp nhà nước được thể hiện qua số lượng lớn, tỷ trọng cao nên vẫn muốn duy trì nhiều doanh nghiệp nhà nước dẫn đến đầu tư quá phân tán và còn thành lập thêm những doanh nghiệp nhà nước, trong cổ phần hóa vẫn muốn Nhà nước giữ tỷ lệ cổ phần chi phối…

Một hiện tượng không bình thường là gần đây trong khi việc sắp xếp doanh nghiệp, thu gọn đầu mối, giải quyết những doanh nghiệp thua lỗ kéo dài, khắc phục tình trạng thiếu vốn còn đang phải đẩy mạnh thì một số doanh nghiệp nhà nước lại được thành lập chỉ dựa vào các dự án vay vốn đầu tư xây dựng cơ bản, cơ quan sáng lập doanh nghiệp nhà nước với tư cách là chủ sở hữu nhưng lại không đảm bảo đủ vốn tối thiểu ban đầu cho doanh nghiệp nhà nước và không nghiên cứu kỹ thị trường tiêu thụ sản phẩm. Do đó nhiều doanh nghiệp vừa mới bắt đầu hoạt động đã lâm vào tình trạng nợ nần, sản phẩm không


tiêu thụ được, năng suất lao động thấp, nổi bật là trong các lĩnh vực xi măng lò đứng, mía đường, gạch Tuy-nen.

Thứ hai, cơ chế chính sách quản lý kinh tế, quản lý doanh nghiệp nhà nước còn nhiều tồn tại, vướng mắc cần tháo gỡ.

Chính sách tài chính tín dụng tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn còn nhiều điểm chưa phù hợp với loại hình doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích và hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường. Nhà nước chưa tạo đủ điều kiện và chưa đòi hỏi đúng mức để doanh nghiệp nhà nước tự chủ, tự chịu trách nhiệm, năng động trong sản xuất kinh doanh, tích tụ vốn cho đầu tư và đổi mới công nghệ; chưa xây dựng phát triển được đồng bộ thị trường vốn để tạo ra sự chu chuyển thông suốt trong toàn xã hội, đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp.

Đặc biệt vốn ban đầu, doanh nghiệp nhà nước nói chung không được Nhà nước đầu tư đầy đủ mà chỉ đầu tư vào tài sản cố định. Điều này khiến nhiều doanh nghiệp không đảm bảo được vốn lưu động tối thiểu. Nguyên nhân là Nhà nước thiếu vốn nhưng lại đầu tư dàn trải, đồng thời pháp luật cũng không quy định rõ mức vốn Nhà nước phải đầu tư vào doanh nghiệp, không phân biệt rõ tính chất vốn điều lệ, vốn đầu tư dẫn đến trách nhiệm về đầu tư vốn của chủ sở hữu nhà nước không rõ ràng và đầy đủ.

Chính sách thuế tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn còn nhiều điểm bất hợp lý, chưa ổn định, chưa chú trọng đầy đủ đến việc nuôi dưỡng nguồn thu và phát triển sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tích lũy vốn. Chế độ kế toán chưa tạo điều kiện và bắt buộc doanh nghiệp nhà nước hạch toán đúng kết quả kinh doanh; phân phối thu nhập chưa tạo được động lực mạnh mẽ cả đối với người quản lý và người lao động; chính sách tiền lương và phân phối lợi nhuận để lại doanh nghiệp chưa gắn chặt với hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nhiều cơ chế, chính sách tài chính không còn phù hợp với cơ chế thị trường nhưng chưa được sửa đổi, chẳng hạn như: quỹ dự phòng rủi ro, quỹ dự phòng thất nghiệp…

Về quản lý nhà nước, chưa phân định rõ ràng các loại quyền như: quyền quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước; quyền của cơ quan nhà nước với tư cách là


chủ sở hữu; quyền của đại diện chủ sở hữu trực tiếp đối với doanh nghiệp; quyền sử dụng vốn và quyền chủ động kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt, cơ chế thực thi sở hữu nhà nước vẫn tỏ ra chưa hiệu quả do một mặt, chúng ta thừa nhận quyền tự chủ khá rộng rãi của doanh nghiệp, nhưng mặt khác vẫn còn tồn tại chế độ chủ quản hành chính trước kia như: duyệt dự án đầu tư mới, bổ nhiệm cán bộ chủ chốt, kiểm tra theo chức năng của cơ quan chủ quản… đã dẫn đến tình trạng doanh nghiệp vừa làm vừa lo, còn cơ quan quản lý nhà nước vẫn thích can thiệp quá nhiều vào công việc của doanh nghiệp mà không phải chịu trách nhiệm.

Ngoài ra, cải cách hành chính còn tiến hành chậm, chưa theo kịp đòi hỏi thực tiễn của tiến trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước, việc nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp còn hạn chế, còn gây nhiều phiền hà cho doanh nghiệp, chưa phát huy đầy đủ quyền tự chủ, tính năng động của doanh nghiệp nhà nước trong cơ chế thị trường.

Thứ ba, sự chậm trễ trong việc thực hiện chủ trương đa dạng hóa sở hữu và cổ phần hóa, chưa tạo được cơ chế quản lý năng động có hiệu quả và đã làm hạn chế các kênh huy động vốn của xã hội cho yêu cầu bù đắp phần thiếu hụt vốn đầu tư của Nhà nước cho doanh nghiệp nhà nước và chậm khắc phục có hiệu quả tình trạng trì trệ và thiếu trách nhiệm trong lao động, quản lý sử dụng vốn của nhà nước.

Thứ tư, trình độ năng lực quản lý kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước còn nhiều yếu kém, bất cập so với yêu cầu hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, nhất là đội ngũ giám đốc doanh nghiệp và cán bộ chủ chốt có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động doanh nghiệp nhưng do cơ chế theo dõi, tuyển chọn và đào tạo còn nhiều yếu kém, bất cập do đó một bộ phận không nhỏ cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp nhà nước hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu, kém năng lực phẩm chất và thiếu trách nhiệm, trong khi đó việc bãi nhiệm, thay thế lại hết sức khó khăn.

Từ những phân tích trên cho thấy, việc tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay vừa đáp ứng được đòi hỏi bức xúc của thực tiễn, vừa


là một tất yếu khách quan để các doanh nghiệp có thể giữ vững, phát huy vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế và chuẩn bị cho quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.

1.2.2. Phương hướng và mục tiêu sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng VI, VII, VIII và các Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương về đổi mới và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hơn 10 năm qua Chính phủ đã triển khai nhiều biện pháp sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước và đã đạt được một số kết quả tích cực. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện cũng bộc lộ những tồn tại, yếu kém và cũng còn nhiều vướng mắc cần được tiếp tục xử lý, tháo gỡ để doanh nghiệp nhà nước thực sự phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.

Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định:


Kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ các vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật.

Trong 5 năm tới, cơ bản hoàn thành việc củng cố sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp nhà nước hiện có, đồng thời phát triển thêm doanh nghiệp mà Nhà nước đầu tư 100% vốn ở một số ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các Tổng Công ty Nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế. Thực hiện tốt chủ trương cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước không nhất thiết nắm giữ 100% vốn; giao, bán, khoán, cho thuê… các doanh nghiệp loại nhỏ mà Nhà nước không cần nắm giữ; sáp nhập, giải thể, phá sản những doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả và không thực hiện được các biện pháp trên [5].

Xem tất cả 87 trang.

Ngày đăng: 26/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí