- Rủi ro khách quan là rủi ro do các nguyên nhân khách quan như thiên tai, địch họa, người vay bị chết, mất tích và các biến động ngoài dự kiến khác làm thất thoát vốn vay trong khi người vay đã thực hiện nghiêm túc chế độ chính sách.
- Rủi ro chủ quan do nguyên nhân thuộc về chủ quan của người vay và người cho vay vì vô tình hay cố ý làm thất thoát vốn vay hay vì những lý do chủ quan khác.
Ngoài ra còn nhiều hình thức phân loại khác như phân loại căn cứ theo cơ cấu các loại hình rủi ro, phân loại theo nguồn gốc hình thành, theo đối tượng sử dụng vốn vay…
.1.3. Đặc điểm của rủi ro tín dụng
Để chủ động phòng ngừa và hạn chế RRTD có hiệu quả, nhận biết các đặc điểm của RRTD rất cần thiết và hữu ích.
Đặc điểm cơ bản của RRTD:
- RRTD mang tính gián tiếp: Trong quan hệ tín dụng, ngân hàng chuyển giao quyền sử dụng vốn cho khách hàng. RRTD xảy ra khi khách hàng gặp những tổn thất và thất bại trong quá trình sử dụng vốn; hay nói cách khác những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của khách hàng là nguyên nhân chủ yếu gây nên RRTD của ngân hàng.
- RRTD có tính chất đa dạng và phức tạp: biểu hiện ở sự đa dạng, phức tạp của nguyên nhân, hình thức, hậu quả của RRTD do đặc trưng ngân hàng là trung gian tài chính kinh doanh tiền tệ. Do đó khi phòng ngừa và xử lý RRTD phải chú ý đến mọi dấu hiệu rủi ro, xuất phát từ nguyên nhân bản chất và hậu quả RRTD đem lại để có biện pháp phòng ngừa và hạn chế phù hợp.
- RRTD có tính tất yếu tức luôn tồn tại và gắn liền với hoạt động tín dụng của NHTM: tình trạng thông tin bất cân xứng đã làm cho ngân hàng không thể nắm bắt được các dấu hiệu rủi ro một cách toàn diện và đầy đủ, điều này làm cho bất cứ khoản vay nào cũng tiềm ẩn rủi ro đối với ngân hàng. Kinh doanh ngân hàng thực chất là kinh doanh rủi ro ở mức phù hợp và đạt được lợi nhuận tương ứng.
Có thể bạn quan tâm!
- Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng của các chi nhánh Ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Phú Thọ - 1
- Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng của các chi nhánh Ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Phú Thọ - 2
- Các Chỉ Tiêu Đánh Giá Và Xác Định Mức Độ Rủi Ro Tín Dụng
- Phương Hướng Phòng Ngừa Và Hạn Chế Rủi Ro Tín Dụng
- Giới Thiệu Chung Về Các Ngân Hàng Trên Địa Bàn Tỉnh Phú Thọ
Xem toàn bộ 138 trang tài liệu này.
1.2. NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ CỦA RỦI RO TÍN DỤNG:
1.2.1. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
1.2.1.1. Nguyên nhân khách quan
- Do môi trường kinh tế không ổn định: Môi trường kinh tế có ảnh hưởng đến sức mạnh tài chính của người đi vay và sự thành bại của họ trong kinh doanh, cũng như của hoạt động tín dụng ngân hàng. Trong thời kỳ nền kinh tế hưng thịnh, các doanh nghiệp kinh doanh dễ dàng hơn trong việc kiếm lợi nhuận và dễ dàng trả nợ đầy đủ, đúng hạn cho ngân hàng. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, sức mua của dân chúng giảm sút, hàng hóa tiêu thụ chậm, ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp, khiến họ khó trả nợ đầy đủ và đúng hạn. Những vấn đề như lạm phát, thất nghiệp, khủng hoảng cũng ảnh hưởng rất lớn tới khách hàng của NHTM, từ đó gây ra RRTD.
Các chính sách kinh tế của Nhà nước cũng có tác động lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường với các chính sách kinh tế thông thoáng, tăng cường mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp không ngừng mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh cả chiều rộng và chiều sâu, làm ăn hiệu quả, có lãi sẽ có nguồn để trả nợ ngân hàng, giảm thiểu RRTD.
- Do môi trường pháp lý chưa thuận lợi: Môi trường pháp lý tạo điều kiện cho NHTM hoạt động trong hành lang pháp lý. Tuy vậy, khi môi trường pháp lý chưa hoàn thiện và đồng bộ, hoặc thay đổi theo hướng bất lợi cho doanh nghiệp thì cũng khiến các khoản vay NHTM gặp khó khăn. Đơn cử như chính sách liên quan đến giao dịch bảo đảm và các quy định trong xử lý TSBĐ của ngân hàng thường gặp khó khăn khi thực hiện do vấn đề quyền sở hữu không rõ ràng. Công tác quản lý nhà nước về chấp hành Pháp lệnh Kế toán thống kê, nhất là đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh không còn thực hiện ghi chép; hạch toán theo kiểu “sổ chợ”. Vấn đề kiểm tra, giám sát các doanh nghiệp hoạt động sau khi thành lập gần như bỏ ngỏ, tạo điều kiện cho nhiều doanh nghiệp “ma” xuất hiện. Một số chính sách thay đổi bất lợi như chính sách khai thác
gỗ ảnh hưởng rất lớn tới các doanh nghiệp xuất khẩu đồ gỗ mỹ nghệ, chính sách thuế đối với khu vực đầu tư trong nước…
- Môi trường chính trị, xã hội ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển, ngược lại sẽ gây ra rủi ro nếu doanh nghiệp luôn trong tình trạng đất nước có chiến tranh, bị cấm vận kinh tế, tệ nạn xã hội tràn lan… từ đó cũng ảnh hưởng tới tình hình tín dụng của ngân hàng.
- Ngoài ra, những rủi ro từ môi trường thiên nhiên như động đất, bão lụt, hạn hán… tác động xấu đến phương án đầu tư của khách hàng, làm cho khách hàng khó có nguồn trả nợ ngân hàng, từ đó cũng gây ra RRTD.
1.2.1.2. Nguyên nhân chủ quan
- Từ phía ngân hàng cho vay:
+ Việc mở rộng tín dụng quá mức thường tạo điều kiện cho RRTD của ngân hàng tăng lên. Với những NHTM thực hiện “độc canh” tín dụng, mở rộng tín dụng được coi là biện pháp duy nhất nhằm tăng doanh thu. Tuy vậy, mở rộng tín dụng quá mức đồng nghĩa với việc lựa chọn khách hàng thiếu kỹ càng, nhất là trong trường hợp thông tin không cân xứng sẽ dễ dàng tạo ra sự đối nghịch. Mặt khác, khi mở rộng tín dụng quá mức sẽ khiến khả năng giám sát của cán bộ tín dụng đối với việc sử dụng khoản vay giảm xuống, từ đó rủi ro đạo đức từ phía người vay thường là hậu quả tất yếu. Mở rộng tín dụng làm cho việc tuân thủ chặt chẽ theo quy trình tín dụng bị lơi lỏng. Các quy định về hạn chế tín dụng, về TSBĐ… không được thực hiện nghiêm minh. Việc mở rộng tín dụng quá mức (cho vay quá mức) đối với một khách hàng cũng dẫn đến RRTD; vì trong quản trị tài chính, khả năng trả nợ của khách hàng là một con số cụ thể, có giới hạn tối đa của nó, nếu cho vay vượt quá giới hạn tối đa này thì RRTD là tất yếu.
+ Trình độ, năng lực của cán bộ tín dụng còn hạn chế:
Trình độ, năng lực của cán bộ tín dụng không chỉ là trình độ chuyên môn mà còn là vấn đề phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp.
Trình độ nghiệp vụ, năng lực của cán bộ tín dụng hạn chế là nguyên nhân lớn dẫn đến RRTD. Bởi vì cán bộ tín dụng là người tiếp xúc trực tiếp với doanh nghiệp,
tiếp nhận hồ sơ và thẩm định hồ sơ, đưa ra quyết định cho vay. Như vậy một món vay có được duyệt hay không phụ thuộc rất lớn vào cán bộ tín dụng. Sự hạn chế về trình độ, năng lực trong quá trình thẩm định, quy trình phân tích, đánh giá khách hàng và quyết định cho vay đã dẫn đến RRTD.
Rủi ro đạo đức của cán bộ tín dụng: Trong quá trình tác nghiệp, cán bộ tín dụng có thể gặp rủi ro đạo đức do quan hệ mờ ám với khách hàng, bị khách hàng mua chuộc... với mục đích che dấu những thông tin xấu của doanh nghiệp hoặc làm thay đổi biến thông tin xấu thành thông tin tốt, dẫn đến việc cho vay đối với những khoản vay tiềm ẩn nhiều rủi ro.
+ Ngân hàng thiếu một chính sách cho vay rõ ràng, hay chính sách cho vay không phù hợp với đặc điểm thực trạng nền kinh tế. Chính sách cho vay ở đây phải được hiểu theo nghĩa đầy đủ, bao gồm định hướng chung trong cho vay, chế độ tín dụng ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, các quy định về đảm bảo cho vay, về loại khách hàng mà ngân hàng quan tâm, ngành nghề được ưu tiên, quy trình xét duyệt cho vay cụ thể. Chính sách cho vay của một ngân hàng là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng của ngân hàng đó. Một chính sách cho vay không đồng bộ, thống nhất, đầy đủ và đúng đắn sẽ tạo ra định hướng lệch lạc cho hoạt động tín dụng, dẫn đến việc cấp tín dụng không đúng đối tượng, tạo kẽ hở cho người sử dụng vốn không đem lại hiệu quả kinh tế, dẫn đến RRTD - nợ quá hạn.
+ Sự cạnh tranh không lành mạnh nhằm thu hút khách hàng giữa các NHTM khiến cho việc thẩm định khách hàng trở nên sơ sài, qua loa hơn. Để đạt được ưu thế trong cạnh tranh, một số ngân hàng đã hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng, giảm thời gian thẩm định… nhằm lôi kéo khách hàng mà không quan tâm đến hiệu quả đồng vốn cho vay. Đây là hình thức cạnh tranh không lành mạnh, tạo điều kiện làm tăng thêm rủi ro trong hoạt động tín dụng.
+ Hơn nữa, nhiều NHTM do quá chú trọng đến lợi nhuận nên đã chấp nhận rủi ro cao, chạy theo doanh số mà xao lãng sự lành mạnh của các khoản vay.
+ Các ngân hàng thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm
định trước khi cho vay mà lơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi
cho vay. Khi ngân hàng cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản lý một cách chủ động để đảm bảo sẽ được hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong những trách nhiệm quan trọng nhất của nhân viên tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói chung. Việc theo dõi hoạt động của khách hàng vay nhằm tuân thủ các điều khoản đề ra trong hợp đồng tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng nhằm tìm ra những cơ hội kinh doanh mới và mở rộng cơ hội kinh doanh. Tuy nhiên trong thời gian qua, các NHTM chưa thực hiện tốt công tác này. Điều này một phần do yếu tố tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng của nhân viên ngân hàng, một phần do hệ thống thông tin quản lý phục vụ kinh doanh tại các doanh nghiệp quá lạc hậu, không cung cấp được kịp thời, đầy đủ các thông tin mà NHTM yêu cầu.
+ Lỏng lẻo trong công tác kiểm tra nội bộ các ngân hàng. Kiểm tra nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra NHNN ở tính thời gian vì nó nhanh chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người kiểm tra viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh. Nhưng trong thời gian trước đây, công việc kiểm tra nội bộ của các ngân hàng hầu như chỉ tồn tại trên hình thức. Kiểm tra nội bộ cần phải được xem như hệ thống “thắng” của cỗ xe tín dụng. Cỗ xe càng lao đi với vận tốc lớn thì hệ thống này càng phải an toàn, hiệu quả thì mới tránh cho cỗ xe khỏi đi vào những ngả rẽ rủi ro vốn luôn luôn tồn tại thường trực trên con đường đi tới.
+ Ngoài ra, còn rất nhiều nhân tố khác thuộc về NHTM có thể gây ra RRTD như: chất lượng thông tin và xử lý thông tin trong NHTM; cơ cấu tổ chức và quản lý đội ngũ cán bộ; năng lực công nghệ…
- Từ phía khách hàng vay:
+ Trình độ kinh doanh của khách hàng là cơ sở của dự án vay vốn thành công, từ đó tạo điều kiện cho NHTM thu nợ dễ dàng. Đối với các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và một số doanh nghiệp quốc doanh ở Việt Nam, kinh nghiệm và năng lực kinh doanh còn đang ở trình độ thấp, hầu hết các doanh nghiệp này đều không nắm bắt được thông tin kịp thời, thiếu thích nghi với cạnh tranh. Vì
vậy, khi dự án vay vốn gặp khó khăn, khả năng trả nợ của ngân hàng gặp vấn đề, RRTD là điều không thể tránh khỏi.
+ Lợi dụng những điểm yếu của NHTM, nhiều khách hàng đã tìm cách lừa đảo để được vay vốn. Để có thể vay được vốn, nhiều khách hàng sẵn sàng làm mọi cách để “qua mắt” cán bộ tín dụng. Họ lập phương án sản xuất kinh doanh giả, giấy tờ thế chấp cầm cố giả mạo, hoặc đi vay ở nhiều ngân hàng với cùng một bộ hồ sơ. Điều này khiến cho một số ngân hàng gặp sai lầm, cho vay và RRTD là điều không thể tránh khỏi.
+ Sử dụng sai mục đích so với hợp đồng tín dụng khiến cho nguồn trả nợ trở nên bấp bênh. Đây là hậu quả của việc NHTM giám sát không chặt chẽ hoặc do khách hàng dự định từ trước khi vay vốn, nhưng trong một số trường hợp là do yếu tố khách quan bất khả thi. Khi công việc kinh doanh đổ vỡ, không có khả năng trả nợ cho NHTM. Vì vậy, khi khách hàng sử dụng sai mục đích, việc thanh toán gốc và lãi đúng hạn rất khó xảy ra, RRTD xuất hiện.
+ Việc trốn tránh trách nhiệm và nghĩa vụ đã ủy quyền và bảo lãnh cũng là một nguyên nhân dẫn đến rủi ro cho NHTM. Một số công ty, tổng công ty đứng ra bảo lãnh hoặc ủy quyền cho các chi nhánh trực thuộc vay vốn của NHTM để tránh sự kiểm tra, giám sát của ngân hàng cho vay chính. Khi đơn vị vay vốn mất khả năng thanh toán, bên bảo lãnh và ủy quyền không chịu trách nhiệm trả nợ thay. Có trường hợp giám đốc doanh nghiệp (chủ tài khoản) ủy quyền cho phó giám đốc của mình ký vào giấy tờ, hồ sơ xin vay vốn bảo lãnh, khi gặp rủi ro thì giám đốc từ chối không chịu trách nhiệm giải quyết hậu quả.
- Sự hợp tác giữa các NHTM quá lỏng lẻo, vai trò của CIC chưa thực sự hiệu
quả:
Kinh doanh ngân hàng là một nghề đặc biệt huy động vốn để cho vay hay nói
cách khác đi vay để cho vay, do vậy vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng là không thể tránh khỏi, các ngân hàng cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm hạn chế rủi ro. Sự hợp tác nảy sinh do nhu cầu quản lý rủi ro đối với cùng một khách hàng khi khách hàng này vay tiền tại nhiều ngân hàng. Trong quản trị tài chính, khả năng trả
nợ của một khách hàng là một con số cụ thể, có giới hạn tối đa của nó. Nếu do sự thiếu trao đổi thông tin, dẫn đến việc nhiều ngân hàng cùng cho vay một khách hàng đến mức vượt quá giới hạn tối đa này thì rủi ro chia đều cho tất cả chứ không chừa một ngân hàng nào.
Trong tình hình cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng gay gắt như hiện nay, vai trò của CIC là rất quan trọng trong việc cung cấp thông tin kịp thời, chính xác để các ngân hàng có các quyết định cho vay hợp lý. Đáng tiếc là hiện nay ngân hàng dữ liệu của CIC chưa đầy đủ và thông tin còn quá đơn điệu, chưa được cập nhật và xử lý kịp thời.
Tóm lại, RRTD có thể phát sinh do rất nhiều nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan. Các biện pháp phòng chống rủi ro có thể nằm trong tầm tay của các ngân hàng nhưng cũng có những biện pháp vượt ngoài khả năng của riêng từng ngân hàng, liên quan đến vấn đề nội tại của bản thân nền kinh tế đang chuyển đổi, đang định hướng mô hình phát triển ở Việt Nam. Trong phạm vi tầm tay của các ngân hàng, RRTD phụ thuộc vào năng lực của bộ phận tín dụng trong việc phát hiện và hạn chế rủi ro từ lúc xem xét quyết định cho vay cũng như trong suốt thời gian vay. Năng lực cấp tín dụng phụ thuộc vào chuyên môn của cán bộ tín dụng và các nguồn lực của ngân hàng về nhân sự cũng như về cơ sở vật chất. Do vậy biện pháp phòng ngừa RRTD sâu sắc nhất vẫn là các biện pháp liên quan đến việc đào tạo, bố trí cán bộ và cơ chế kiểm tra, giám sát hành vi của cán bộ trong quá trình xử lý công việc. Thực hiện tốt các biện pháp này có thể cho rằng con đường quản lý RRTD của ngành ngân hàng coi như đã đi được hơn một nửa.
1.2.2. Hậu quả của rủi ro tín dụng
1.2.2.1. Đối với bản thân ngân hàng:
- RRTD làm giảm uy tín của ngân hàng: Đối với mỗi ngân hàng, uy tín giữ vai trò quan trọng hàng đầu trong hoạt động kinh doanh. Với hoạt động cơ bản là huy động vốn, các ngân hàng luôn mong muốn tạo dựng uy tín để huy động tiền gửi của các tổ chức kinh tế, các cá nhân. Trong trường hợp xảy ra RRTD sẽ tác động xấu đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng, dẫn đến khả năng không thu hồi được
gốc và lãi, lợi nhuận giảm, nợ xấu tăng lên. Đây là nguyên nhân trực tiếp làm giảm sút uy tín của ngân hàng.
- RRTD làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng: Ngân hàng luôn luôn phải duy trì khả năng thanh toán của mình trong mọi trường hợp. Bất cứ khi nào người gửi tiền đến rút khoản tiền mà họ gửi tại ngân hàng thì ngân hàng đều phải chi trả đầy đủ cả gốc và lãi. Với vai trò là trung gian huy động nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức, cá nhân để cho vay nhằm tìm kiếm lợi nhuận, ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán nguồn vốn mà ngân hàng đã huy động được khi xảy ra RRTD. Khi đó, ngân hàng bị tổn thất về nguồn vốn nhưng vẫn phải thanh toán đầy đủ cho các khoản nợ và khoản vay của ngân hàng.
- RRTD làm giảm lợi nhuận của ngân hàng: Với mỗi ngân hàng, lợi nhuận thu được từ hoạt động cho vay chiếm tỷ lệ rất lớn, từ 40-80% tổng lợi nhuận. RRTD làm cho ngân hàng mất một phần lợi nhuận do không thu được lãi cho vay, đồng thời, ngân hàng phải bù đắp phần gốc vay không thu hồi được từ quỹ dự phòng RRTD. Điều này làm cho lợi nhuận của ngân hàng còn lại càng bị thấp.
- RRTD có thể dẫn tới phá sản ngân hàng: Khi RRTD xảy ra sẽ làm giảm uy tín, giảm khả năng thanh toán, giảm lợi nhuận và hậu quả xấu nhất là dẫn đến phá sản ngân hàng.
1.2.2.2. Đối với nền kinh tế:
Ngân hàng - Tài chính là lĩnh vực có ảnh hưởng sâu sắc đối với nền kinh tế. Hoạt động ngân hàng có liên quan chặt chẽ đến tất cả các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội và cá nhân, hộ gia đình... Khi nền kinh tế càng phát triển thì ngân hàng càng giữ vai trò quan trọng. RRTD gây ra những hậu quả xấu cho chính ngân hàng như: giảm khả năng thanh toán, giảm uy tín, giảm lợi nhuận, đồng thời cũng gây ra những tác động xấu cho nền kinh tế. Sự sụp đổ của các ngân hàng sẽ kéo theo sự xáo trộn rất lớn đối với kinh tế, xã hội. Người gửi tiền bị mất vốn, có thể bị khánh kiệt; các doanh nghiệp không có vốn để tiếp tục duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, sản xuất bị đình trệ, hàng hóa sản xuất ra không tiêu thụ được... Như vậy hậu quả tất yếu là dẫn đến suy thoái kinh tế. RRTD không chỉ ảnh hưởng đến kinh tế