ĐINH VĂN QUẾ
CHÁNH TOÀ TOÀ HÌNH SỰ TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
BÌNH LUẬN KHOA HỌC BỘ LUẬT HÌNH SỰ
PHẦN CÁC TỘI PHẠM
(TẬP IX)
CÁC TỘI XÂM PHẠM AN TOÀN CÔNG CỘNG, TRẬT TỰ CÔNG CỘNG
Có thể bạn quan tâm!
- Bình luận khoa học bộ luật hình sự Tập 9 - Đinh Văn Quế - 2
- Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 4 Điều 206 Bộ Luật Hình Sự
- Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 2 Điều 207 Bộ Luật Hình Sự
Xem toàn bộ 294 trang tài liệu này.
(BÌNH LUẬN CHUYÊN SÂU)
NHÀ XUẤT BẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LỜI GIỚI THIỆU
Bộ luật hình sự đã được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999, có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 2000 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 1999). Đây là Bộ luật hình sự thay thế Bộ luật hình sự năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung bốn lần vào các ngày 28-12-1989, ngày 12-8-1991, ngày 22-12-1992 và ngày 10-5-1997.
Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh đang xuất bản bộ sách BÌNH LUẬN KHOA HỌC BỘ LUẬT HÌNH SỰ, được thể hiện với nội dung Bình luận chuyên sâu. Hiện tại đã in 10 tập: 1 tập Phần chung và 9 tập Phần các tội phạm.
Tác giả của bộ sách là Thạc sĩ luật học
Đinh Văn Quế,
Chánh toà
Toà hình sự Toà án nhân dân tối cao; đã nhiều năm công tác trong ngành, có nhiều đề tài nghiên cứu khoa học, tham gia giảng dạy, đã cho xuất bản nhiều tác phẩm về luật hình sự, đồng thời cũng là người trực tiếp tham gia xét xử nhiều vụ án hình sự.
Xin trân trọng giới thiệu tập 9 (Phần các tội phạm) của Bộ sách trên và mong nhận được sự đóng góp của bạn đọc.
NHÀ XUẤT BẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
PHẦN THỨ NHẤT
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC TỘI XÂM PHẠM AN TOÀN CÔNG CỘNG, TRẬT TỰ CÔNG CỘNG
Bộ luật hình sự năm 1985 quy định các tội xâm phạm an toàn công
cộng, trật tự
công cộng và trật tự
quản lý hành chính cùng trong một
chương (Chương VIII- Phần các tội phạm), nhưng cấu tạo thành ba mục khác nhau:
Mục A: Các tội xâm phạm an toàn công cộng; Mục B: Các tội xâm phạm trật tự công cộng;
Mục C: Các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính.
Nay Bộ luật hình sự năm 1999 quy định các tội xâm phạm an toàn công cộng và các tội xâm phạm trật tự công cộng cùng trong một chương, nhưng không cấu tạo thành các mục A, B như Bộ luật hình sự năm 1985. Đây cũng là vấn đề trong quá trình soạn thảo có nhiều ý kiến khác nhau về kỹ thuật lập pháp.
Có ý kiến cho rằng, lẽ ra khi tách chương VIII - Phần các tội phạm Bộ luật hình sự năm 1985 thành các chương khác nhau, thì phải quy định làm ba chương theo ba mục A,B,C. Nhưng nhà làm luật chỉ tách Mục C thành một chương riêng, còn Mục A và Mục B vẫn quy định trong cùng một chương, nhưng lại không cấu tạo thành các mục, nên việc xác định đâu là tội xâm phạm an toàn công cộng, đâu là tội xâm phạm trật tự công cộng sẽ gặp khó khăn. Tuy nhiên, căn cứ vào dấu hiệu của từng tội phạm chúng ta thấy: có tội chỉ vi phạm quy định về an toàn giao thông1, có tội chỉ
xâm phạm an toàn công cộng, có tội chỉ
xâm phạm trật tự
công cộng,
nhưng có tội vừa xâm phạm an toàn công cộng vừa xâm phạm trật tự công cộng, nên việc tách bạch đâu là xâm phạm an toàn công cộng, đâu là xâm phạm trật tự công cộng là vấn đề không đơn giản. Chính vì vậy mà nhà làm luật quy định các tội xâm phạm an toàn công cộng và các tội xâm phạm trật tự công cộng trong cùng một chương là có cơ sở. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, đối với các tội vi phạm về an toàn giao thông nhà làm luật nên quy định riêng thành một chương, vì đối với các tội phạm này có những
đặc điểm tương tự như nhau và khác với các tội xâm phạm trật tự công
cộng khác. Hy vọng rằng, khi có chủ trương sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự, ý kiến này sẽ được nhà làm luật quan tâm, xem xét.
Các tội các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng quy tại chương XIX, trừ các tội vi phạm quy định về an toàn giao thông (đã giới thiệu ở tập VII) thì còn lại hầu hết có sửa đổi, bổ sung. Một số tội trước
1 Các tội vi phạm quy định về an toàn giao thông đã được bình luận tại Tập VII.
đây quy định tại Mục B - Chương một – Phần các tội phạm Bộ luật hình sự năm 1985 nay được quy định tại Chương XIX như: tội chiếm đoạt máy bay, tàu thuỷ; tội điều khiển máy bay vi phạm các quy định về hàng không
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tội điều khiển phương
tiện hàng hải vi phạm các quy định về hàng hải của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự; tội phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia; tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ; tội chiếm đoạt, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ; tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc; tội truyền bá văn hoá phẩm đồi trụy. Một số tội đựơc tách ra từ tội phạm khác để cấu tạo thành tội riêng như: tội tổ chức đua xe trái phép; tội đua xe trái phép là tội phạm được tách từ tội gây rối trật tự công cộng. Một số tội mới hoàn toàn như: tội tạo ra và lan truyền, phát tán các chương trình vi-rút tin học; tội vi phạm các quy định về vận hành, khai thác và sử dụng mạng máy tính điện tử; tội sử dụng trái phép thông tin trên mạng và trong máy tính; tội vi phạm quy định về sử dụng lao động trẻ em; tội vi phạm quy định về an toàn vận hành công trình điện; tội phá thai trái phép; tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí thô sơ hoặc công cụ hỗ trợ; tội hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có.
So với các chương khác thì Chương XIX nhà làm luật quy định nhiều tội phạm nhất; các tội phạm quy định trong chương này cũng xâm phạm
đến nhiều khách thể được chia thành các nhóm; có trường hợp một tội
phạm xâm phạm đến nhiều khách thể khác nhau; hầu hết các tội quy định trong chương này là tội cấu thành vật chất, nhưng cũng có một số tội do yêu cầu phòng ngừa nên nhà làm luật vẫn quy định là tội có cấu thành hình thức; nhiều tội phạm nhà làm luật quy định một số tình tiết là yếu tố định tội thuộc về nhân thân người phạm tội như: đã bị xử phạt hành chính, đã bị kỷ luật, đã bị kết án… mà còn vi phạm; nhiều tội phạm nhà làm luật quy định nhiều hành vi phạm tội khác nhau xâm phạm đến nhiều đối tượng khác nhau trong cùng một cấu thành.
Hầu hết các tội trong chương này, nhà làm luật đều bổ sung các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt.
So với Bộ luật hình sự năm 1985 thì Chương XIX Bộ luật hình sự năm 1999 nhà làm luật quy định nhiều hình phạt tiền là hình phạt chính hơn
Bộ luật hình sự năm 1985. Nếu tính cả các tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông thì có tới 29 trên tổng số 55 tội nhà làm luật quy định hình phạt tiền là hình phạt chính; hầu hết các tội phạm trong chương này đều quy định hình phạt tiền là hình phạt bổ sung; có 2 tội có hình phạt cao nhất là tử hình, đó là: tội chiếm đoạt máy bay, tàu thuỷ và tội phá huỷ công trình,
phương tiện quan trọng về
an ninh quốc gia nhưng thực tiễn xét xử
tội
chiếm đoạt máy bay, tàu thuỷ chưa xảy ra nên hình phạt tử hình cũng chưa áp dụng, còn đối với tội phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia tuy có xảy ra nhưng chưa có trường hợp nào áp dụng hình phạt tử hình; 7 tội có hình phạt cao nhất là tù chung thân. Các tội phạm có mức hình phạt là tử hình và tù chung thân đều là tội trước đây quy định tại chương “các tội xâm phạm an ninh quốc gia”.
Hầu hết các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng nhà làm luật đều quy định hình phạt bổ sung đối với người phạm tội và được quy định ngay trong cùng một điều luật.
PHẦN THỨ HAI
CÁC TỘI PHẠM CỤ THỂ
1. TỘI TỔ CHỨC ĐUA XE TRÁI PHÉP
Điều 206. Tội tổ chức đua xe trái phép
1. Người nào tổ chức trái phép việc đua xe ô tô, xe máy hoặc các loại
xe khác có gắn động cơ, thì bị
phạt tiền từ
mười triệu đồng đến năm
mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
a) Tổ chức đua xe có quy mô lớn;
b) Tổ chức cá cược;
c) Tổ chức việc chống lại người có trách nhiệm bảo đảm trật tự an toàn giao thông hoặc người có trách nhiệm giải tán cuộc đua xe trái phép;
d) Tổ chức đua xe nơi tập trung đông dân cư;
đ) Tháo dỡ các thiết bị an toàn khỏi phương tiện đua;
e) Gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác;
g) Tái phạm về tội này hoặc tội đua xe trái phép.
3. Phạm tội trong trường hợp tái phạm nguy hiểm hoặc gây hậu quả rất nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
4. Phạm tội gây hậu quả
đặc biệt nghiêm trọng thì bị
phạt tù từ
mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến ba mươi triệu đồng.
Định nghĩa: Tổ chức đua xe trái phép là hành vi cầm đầu, chỉ huy,
cưỡng bức, đe dọa, rủ rê, lôi kéo người khác hoặc tạo điều kiện vật chất hoặc tinh thần cho người khác để họ tham gia vào việc đua xe ô tô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ trái phép.
Bộ luật hình sự
năm 1985 không quy định tội tổ
chức đua xe trái
phép. Điều này cũng dẽ hiểu, vì trước năm 1985 ở nước ta chưa có tình
trạng đua xe trái phép, vào nhứng năm 90 tình trạng đua xe trái phép ở một số thành phố xảy ra khá phổ biến gây mất trật tự, an toàn công cộng. Do yêu cầu đấu tranh phòng chống hành vi đua xe trái phép nên Bộ luật hình sự năm 1999 đã bổ sung tội tổ chức đưa xe trái phép và tội đua xe trái phép. Tuy nhiên, trước khi Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực, hành vi tổ chức đua xe trái phép và hành vi đua xe trái phép không phải là không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gây rối trật tự công cộng quy định tại Điều 198 Bộ luật hình sự năm 1985. Đây cũng là lý do vì sao chúng tôi không xếp tội tổ chức đua xe trái phép và tội đua xe trái phép là tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông, mặc dù khoản 6 Điều 8 Luật giao thông đường bộ có quy định cấm đua xe, tổ chức đua xe trái phép và 2 tội này cũng xâm phạm đến an toàn giao thông đường bộ.
A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm này không phải là chủ thể đặc biệt, chỉ cần người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đến một độ tuổi theo quy
định của Bộ này.
luật hình sự thì đều có thể trở thành chủ thể của tội phạm
Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm này thuộc trường hợp quy định tại khoản 2,
khoản 3 và khoản 4 của điều luật; người đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này không phân biệt thuộc trường hợp nào quy định tại điều luật.
2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm này vừa xâm phạm đến an toàn công cộng vừa xâm phạm đến trật tự công cộng.
Xâm phạm an toàn công cộng là gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến tài sản, tính mạng, sức khoẻ của con người ở nơi công cộng, làm cho mọi người hoang mang lo sợ. Điều này thì ai cũng thấy, bất kể ở đâu khi đoàn xe đua đi qua ai cũng sợ hãi và không ít trường hợp do đua xe trái phép đã gây ra hậu quả chết người hoặc gây tổn hại đến sức khoẻ của con người.
Cùng với việc gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến tài sản, tính mạng, sức khoẻ của con người thì hành vi tổ chức đua xe trái phép còn
gây mất trật tự
nơi công cộng,
ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động
bình thường của cộng đồng, gây náo động nơi công cộng, nhiều trường hợp làm tắc nghẽn giao thông nhiều giờ.
Đối tượng tác động của tội phạm này chính là người đua xe, người cổ vũ đua xe chứ không phải phương tiện dùng để đua là ô tô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ. Đây là vấn đề về lý luận cũng còn ý kiến khác nhau, có ý kiến cho rằng con người không thể là đối tượng tác động của bất cứ tội phạm nào, nhưng cũng có ý kiến cho rằng con người cũng là
một vật thể, đều có thể
trở
thành đối tượng tác động của tội phạm mà
người phạm tội thông qua đó xâm phạm đến khách thể mà luật hình bảo vệ.
Đối với tội tổ chức đua xe trái phép nếu người phạm tội không tác động đến những người đua xe, người cổ vũ đua xe thì cũng không xảy ra cuộc đua xe; không thể tổ chức đua xe mà lại không tổ những người đua xe để đua xe trái phép.
3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm
a. Hành vi khách quan
Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi tổ chức. Hành vi tổ chức hoàn toàn khác với khái niệm “phạm tội có tổ chức” là một hình thức đồng phạm của nhiều người cố ý cùng thực hiện một tội phạm. Phạm tội có tổ chức là nói lên quy mô của một vụ án, còn tổ chức với ý nghĩa là hành vi khách quan là hành vi do một hoặc một số người thực hiện như: tổ chức làm một việc gì đó, tổ chức đi nghỉ mát, tổ chức một bữa tiệc liên hoan, tổ chức một đêm ca nhạc, tổ chức một trận đá bóng giao hữu… và tổ chức đua xe. Hành vi tổ chức đua xe trái phép, tuỳ thuộc vào tính chất, quy mô, mục đích mà người tổ chức có thể huy động lực lượng, phương tiện, tiền của để đạt mục đích đề ra.
Người phạm tội tổ chức đua xe trái phép, có thể thực hiện một trong các hành vi sau:
Khởi xướng ra việc đua xe; vạch kế hoạch đua xe; chỉ huy việc đua xe; cưỡng bức, dụ dỗ, mua chuộc, lôi kéo, kích động người khác đua xe; quyên góp tiền, cung cấp tiền, tài sản cho người đua xe hoặc để làm giải thưởng cho người đua xe; cung cấp xe cho người đua xe; tổ chức canh gác,
bảo vệ hoặc chống đối lại lực lượng làm nhiệm vụ; huy động, lôi kéo,
mua chuộc người khác cổ vũ cho cuộc đua.v.v…
Người phạm tội có thể thực hiện một hoặc một số hành vi nêu trên; nếu người phạm tội chỉ thực hiện những hành vi không trực tiếp liên quan đến hành vi tổ chức đua xe trái phép thì người phạm tội phải là người chịu sự chỉ huy của người khác và hành vi của người này cùng với hành vi của người khác tạo nên một cuộc đua xe trái phép. Ví dụ: Dưới sự chỉ huy của Vũ Văn A, nên Nguyễn Quốc B được phân công canh gác nếu thấy Cảnh sát giao thông thì điện thoại báo cho A biết, còn Bùi Quốc H được phân công rủ rê, lôi kéo một số thanh niên ra đường cổ vũ khi đoàn xe đua đi qua, còn Đặng Xuân Đ được phân công quyên góp tiền để làm giải thưởng cho cuộc đua; mỗi hành vi của từng người nếu tách riêng ra thì không có thể tổ chức thành một cuộc đua xe trái phép nhưng kết nối lại dưới sự chỉ huy của một người thì cuộc đua xe trái phép sẽ được thực hiện.
Tội phạm hoàn thành khi người phạm tội đã thực hiện hành vi tổ chức đua xe trái phép, việc đua xe có xảy ra hay không không phải là dấu hiệu bắt buộc. Nếu đã tổ chức cuộc đua nhưng vì những lý do khách quan nên cuộc đua không thực hiện được thì cũng không vì thế mà cho rằng hành vi tổ chức đua xe chưa cấu thành tội phạm, mà người phạm tội chỉ có thể được coi là phạm tội ở giai đoạn chưa đạt. Tuy nhiên, nếu đã tổ chức đua