Bình luận khoa học bộ luật hình sự Tập 7 - Đinh Văn Quế - 39

Ý NGHĨA BỘ CỜ HIỆU


Cờ chữ A - Báo hiệu tàu đang chạy thử máy, thử tốc độ. Cờ chữ B - Báo hiệu tàu đang chở chất nổ, chất dễ cháy.

Cờ chữ O - Báo hiệu tàu có người ngã xuống nước, xin cấp cứu.

Cờ chữ K - Báo hiệu của Trạm kiểm soát gọi phương tiện lại để kiểm tra

Cờ xanh ve - Báo hiệu của phương tiện xin cảnh sát giao thông lên

tàu.


Cờ chữ


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 321 trang tài liệu này.

Q/L - Báo hiệu trên tàu có người hay súc vật mắc bệnh

truyền nhiễm.

Bình luận khoa học bộ luật hình sự Tập 7 - Đinh Văn Quế - 39

Cờ chữ N/C - Báo hiệu tàu bị nạn xin cấp cứu.


TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO DO - HẠNH PHÚC

BỘ CÔNG AN- BỘ TƯ PHÁP

CỘNG HOÀ XÃ HỘI ĐỘC LẬP - TỰ



NGÀY 25 THÁNG 12 NĂM 2001

SỐ: 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP.

HÀ NỘI,


THÔNG TƯ LIÊN TỊCH (TRÍCH)

HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG MỘT SỐ

XIV


QUY ĐỊNH TẠI CHƯƠNG

"CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU" CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM

1999


Để áp dụng đúng và thống nhất các quy định tại Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật hình sự năm 1999 (sau đây viết tắt là BLHS), Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp thống nhất hướng dẫn một số điểm như sau:


I. Về một số tình tiết là yếu tố định tội hoặc định khung

hình phạt.

1................................

2..................................

3. Khi áp dụng các tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" (từ Điều 133 đến Điều 140, Điều 142 và Điều 143 BLHS) cần chú ý:


3.4. Để xem xét trong trường hợp nào hành vi phạm tội gây

hậu quả nghiêm trọng, trong trường hợp nào hành vi phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng và trong trường hợp nào hành vi phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng về nguyên tắc chung phải đánh giá một cách toàn diện, đầy đủ các hậu quả (thiệt hại về tài sản, thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và các thiệt hại phi vật chất). Nếu gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản thì được xác định như sau:


a) Nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây là gây hậu quả nghiêm trọng:


a.1) Làm chết một người;


a.2) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên;


a.3) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba

đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%;


a.4) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, nếu không thuộc các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm a.2 và a.3 trên đây;


a.5) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về

tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng;


a.6) Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng.


b) Nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây là gây hậu quả rất nghiêm trọng:

b.1) Làm chết hai người;


b.2) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên;

của ba


b.3) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm đến bảy người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%;


b.4) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%, nếu không thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm b.2 và b.3 trên đây;


b.5) Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng;


b.6) Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc hai đến ba điểm từ điểm a.1 đến điểm a.6 tiểu mục 3.4 này.


c) Nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây là gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng:


c.1) Làm chết ba người trở lên;


c.2) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên;


c.3) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của tám người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%;


c.4) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 201% trở lên, nếu không thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm c.2 và c.3 trên đây;


c.5) Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở lên;


c.6) Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc bốn điểm trở lên từ điểm a.1 đến điểm a.6 tiểu mục 3.4 này;

c.7) Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc hai điểm trở lên từ điểm b.1 đến điểm b.6 tiểu mục 3.4 này.


Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến

việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh

hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.


--------------------------------------------------------------------------------------

----------------------

Toà án nhân dân tối cao Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Hà Nội, ngày 17 tháng 4 năm 2003 Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Số: 02/2003/NQ-HĐTP

NGHỊ QUYẾT

Của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự



Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao


- Căn cứ vào Luật tổ chức Toà án nhân dân;

- Để áp dụng đúng và thống nhất các quy định của Bộ luật hình sự;


QUYẾT NGHỊ:


I. VỀ MỘT SỐ TÌNH TIẾT LÀ YẾU TỐ ĐỊNH TỘI HOẶC ĐỊNH KHUNG HÌNH PHẠT


1......................

2.........................

3.........................

4. Về các tình tiết “gây thiệt hại nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sự

4.1. Người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ nếu chỉ căn cứ vào thiệt hại xảy ra, thì gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự:


a. Làm chết một người;

b. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;

c. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 41% đến 100%;

d. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;

đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người, với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;

e. Gây thiệt hại về dưới năm trăm triệu đồng.

tài sản có giá trị

từ năm mươi triệu đồng đến

4.2. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây là “gây hậu quả rất nghiêm trọng” và phải chịu trách nhiệm hình sự theo điểm đ khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự:


a. Làm chết hai người;

b. Làm chết một người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm b, c, d, đ và e tiểu mục 4.1 mục 4 này;

c. Gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;

d. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%;

đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương

tật của mỗi người từ

31% trở

lên và còn gây hậu quả thuộc một trong

các trường mục 4 này;

hợp được hướng dẫn tại các điểm c, d, đ và e tiểu mục 4.1

e. Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng.

4.3. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây là “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” và phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 202 Bộ luật hình sự:


a. Làm chết ba người trở lên;

b. Làm chết hai người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm b, c, d, đ và e tiểu mục 4.1 mục 4 này;

c. Làm chết một người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm c, d, đ và e tiểu mục 4.2 mục 4 này;

d. Gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;

đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của những người này trên 200%;

e. Gây tổn hại cho sức khoẻ của ba hoặc bốn người với tỷ lệ thương

tật của mỗi người từ

31% trở

lên và còn gây thiệt hại về

tài sản được

hướng dẫn tại điểm e tiểu mục 4.2 mục 4 này;

g. Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở

lên.


III. Hiệu lực thi hành của Nghị quyết


1. Nghị quyết này đã được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 4 năm 2003 và có hiệu lực thi hành sau mười lăm ngày, kể từ ngày đăng Công báo.


2. Nghị

quyết này được áp dụng khi xét xử

sơ thẩm, xét xử

phúc

thẩm, xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với người thực hiện hành vi phạm tội trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực. Trong trường hợp theo các văn bản hướng dẫn trước đây là phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng

theo Nghị quyết này không phải chịu trách nhiệm hình sự, thì Toà án áp

dụng khoản 1 Điều 25 Bộ luật hình sự

miễn trách nhiệm hình sự

cho

người phạm tội. Trong trường hợp này Toà án cần giải thích cho họ biết là do chuyển biến của tình hình mà hành vi của họ không còn nguy hiểm cho xã hội nữa cho nên họ được miễn trách nhiệm hình sự, chứ không phải họ bị oan do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự gây ra; do đó, họ không

có quyền đòi yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 624

Bộ luật dân sự và theo Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17-

3-2003 của Uỷ

ban thường vụ Quốc

hội

“Về

bồi thường thiệt hại cho

người bị gây ra”.

oan do người có thẩm quyền trong hoạt

động tố tụng hình sự


3. Đối với các trường hợp mà người phạm tội đã bị kết án đúng theo các văn bản hướng dẫn trước đây và bản án đã có hiệu lực pháp luật thì

không căn cứ

vào Nghị

quyết này để

kháng nghị

theo thủ

tục giám đốc

thẩm, tái thẩm, trừ trường hợp có những căn cứ kháng nghị khác. Nếu theo Nghị quyết này là họ không phải chịu trách nhiệm hình sự thì giải quyết theo thủ tục miễn chấp hành hình phạt.

Xem tất cả 321 trang.

Ngày đăng: 22/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí