Người Nào Sản Xuất Trái Phép Chất Ma Tuý Dưới Bất Kỳ Hình Thức Nào, Thì Bị Phạt Tù Từ Hai Năm Đến Bảy Năm.


thực hành nhưng người thực hành chưa thực hiện hành vi trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý mà mới chuẩn bị việc thực hiện hành vi trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý thì vẫn là phạm tội có tổ chức nhưng ở gai đoạn chuẩn bị phạm tội.

b. Tái phạm tội này

Nói chung, Bộ luật hình sự chỉ quy định tái phạm và tái phạm nguy hiểm còn khái niệm tái phạm tội này chỉ quy định trong một số trường hợp cụ thể là yếu tố định tội hoặc là yếu tố định khung hình phạt.

Theo quy định tại Điều 49 Bộ luật hình sự thì tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý. Tuy nhiên, điểm b khoản 2 Điều 192 Bộ luật hình sự không quy định tái phạm mà quy định rõ là tái phạm tội này (tức là tái phạm tội trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý).

Tái phạm tội này là trường hợp đã bị kết án về tội trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý. Nếu trước đó người phạm tội bị kết án về một tội phạm khác không phải là tội trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý thì không phải là tái phạm tội này.

Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 192 Bộ luật hình sự thì người phạm tội bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm, là tội phạm nghiêm trọng.


So với khoản 2 Điều 185a Bộ

luật hình sự

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 262 trang tài liệu này.

năm 1985 thì khoản 2

Điều 192 Bộ luật hình sự năm 1999 không nặng hơn và cũng không nhẹ

Bình luận khoa học bộ luật hình sự Tập 4 - Đinh Văn Quế - 3

hơn. Do đó hành vi phạm tội trồng cây thuốc phiện hoặc các cây khác có

chứa chất ma tuý xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới xử lý thì cũng không áp dụng Điều 192 Bộ luật hình sự năm

1999 mà vẫn áp dụng khoản 2 Điều 185a Bộ luật hình sự năm 1985. Tuy

nhiên, tại

mục 4 Thông tư

liên tịch số

02/2000/TTLT-TANDTC-

VKSNDTC-BTP-BCA ngày 5-7-2000 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an lại hướng dẫn: “Đối với những tội phạm đã được quy định trong một điều luật của Bộ luật hình sự năm 1985, nay theo cách so sánh tại các điểm từ điểm b1 đến điẻm b6 Mục 2 và tại các điểm từ điểm d1 đến điểm d6 Mục 3 Thông tư này mà vẫn

giữ

nguyên trong điều luật tương

ứng của Bộ

luật hình sự

1999, thì áp

dụng điều luật của Bộ luật hình sự năm 1999 để truy cứu trách nhiệm hình sự”. Hướng dẫn này trái với quy định tại khoản 1 Điều 7 Bộ luật hình sự


năm 1999. Thiết nghĩ các cơ quan ban hành Thông tư trên cần sửa đổi kịp thời mục 4 để việc áp dụng Bộ luật hình sự năm 1999 chính xác hơn.7


Cũng như các trường hợp phạm tội khác, ngoài việc căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự về quyết định hình phạt, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự,

không có tình tiết tăng nặng, Toà án có thể phạt dưới ba năm tù nhưng

không được dưới 6 tháng tù vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật và cũng có thể cho họ được hưởng án treo nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình.

Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng không có tình tiết giảm nhẹ, là người thuộc đối tượng nghiêm trị như: người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy trong vụ án có tổ chức hoặc là người tái phạm hoặc tái phạm

nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội, người phạm tội

dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, thì phạt mức cao của khung hình phạt ( bảy năm tù).

3. Hình phạt bổ sung

Ngoài hình phạt chính, người phạm tội phạm tội trồng cây thuốc

phiện hoặc các cây khác có chứa chất ma tuý triệu đến năm mươi triệu đồng.

còn có thể bị

phạt từ

một

So với Điều 185(o) Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với tội phạm này, thì khoản 3 Điều 192 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, vì mức phạt tiền quy định tại Điều 185(o) từ năm triệu đến năm mươi triệu đồng, Vì vậy, Toà án được áp dụng khoản 3 Điều 192 Bộ luật hình sự năm 1999 để phạt tiền đối với hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý.


2. TỘI SẢN XUẤT TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Điều 193. Tội sản xuất trái phép chất ma túy

1. Người nào sản xuất trái phép chất ma tuý dưới bất kỳ hình thức nào, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:



7 Xem Thông tư liên tịch số 02/2000/ TTLT-/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BCA ngày 5-7-2000 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an .


a) Có tổ chức;

b) Phạm tội nhiều lần;

c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

d) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

đ) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao cô ca có trọng lượng từ năm trăm gam đến dưới một kilôgam;

e) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ năm gam đến dưới ba mươi

gam;

g) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ hai mươi gam

đến dưới một trăm gam;

h) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ một trăm mililít đến dưới hai trăm năm mươi mililít;

i) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm đ đến điểm h khoản 2 điều này;

k) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm:

a) Có tính chất chuyên nghiệp;

b) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao cô ca có trọng lượng từ một kilôgam đến dưới năm kilôgam;

c) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ ba mươi gam đến dưới một trăm gam;

d) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ một trăm gam đến dưới ba trăm gam;

đ) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ hai trăm năm mươi mililít đến dưới bảy trăm năm mươi mililít;

e) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm đ khoản 3 điều này.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao cô ca có trọng lượng từ năm kilôgam trở lên;

b) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ một trăm gam trở lên;

c) Các chất ma tuý khác trở lên;

ở thể rắn có trọng lượng từ ba trăm gam

d) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ bảy trăm năm mươi mililít trở

lên;


đ) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm d khoản 4 điều này.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến

năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm

nhiệm chức vụ, cấm hành nghề đến năm năm.

hoặc làm công việc nhất định từ một năm

Đnh Nghĩa: Tội sản xuất trái phép chất ma tuý là hành vi chiết xuất chất ma tuý từ quả của cây thuốc phiện, lá, hoa, quả của cây cần sa, lá của cây co ca cũng như việc điều chế, pha chế từ tiền chất ma tuý thành chất ma tuý hoặc từ chất ma tuý này thành chất ma tuý khác trái với quy định của Nhà nước.


Tội

sản xuất trái phép chất

ma tuý quy định tại Điều 193 Bộ

luật

hình sự là tội phạm đã được quy định tại Điều 185b Bộ luật hình sự năm 1985. Các dấu hiệu cấu thành tội phạm, các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt nói chung không có gì thay đổi lớn.

Tuy nhiên, so với Điều 185b Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 193 Bộ luật hình sự năm 1999 có một số sửa đổi như sau:

- Nếu Điều 185b Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “có nhiều tình tiết quy đinh quy định tại khoản 2 điều này” và “có nhiều tình tiết quy đinh quy định tại khoản 3 điều này” tại điểm g khoản 3 và điểm g khoản 4 của điều luật, thì Điều 193 Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định tình tiết này là yếu tố định khung hình phạt nữa;

- Nếu khoản 1 Điều 185b Bộ luật hình sự năm 1985 có khung hình phạt từ ba năm đến mười năm tù thì khoản 1 Điều 193 Bộ luật hình sự năm 1999 có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù;

- Nếu khoản 2 Điều 185b Bộ luật hình sự năm 1985 có khung hình

phạt từ mười năm đến mười lăm năm tù thì khoản 2 Điều 193 Bộ luật

hình sự năm 1999 có khung hình phạt từ bảy năm đến mười lăm năm tù;

- Nếu khoản 4 Điều 185b Bộ luật hình sự năm 1985 có khung hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì khoản 4 Điều 193 Bộ luật hình sự năm 1999 có khung hình phạt từ hai mươi năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.

Về hình phạt bổ sung, cũng có những thay đổi như:

- Nếu Điều 185(o) Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “bị phạt tiền từ hai mươi triệu đồng đến năm trăm triệu đồng hoặc bị tich thu một phần hoặc toàn bộ tài sản; bị cấm đảm nhiệm chức vụ, làm những nghề hoặc

công việc nhất định từ hai năm đến năm năm” thì khoản 5 Điều 193 Bộ

luật hình sự năm 1999 chỉ quy định “có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng


đến năm trăm triệu đồng, tich thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”.

- Nếu Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hình phạt bổ sung cho tất cả các tội phạm về ma tuý tại một điều luật (Điều 185o), thì Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hình phạt bổ sung cho tội phạm nào thì quy định ngay trong điều luật quy định về tội phạm đó. Hình phạt bổ sung của tội sản xuất trái phép chất ma tuý được quy định tại khoản 3 của Điều 193 Bộ luật hình sự.

A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm

Cũng như chủ thể của các tội phạm khác, chủ thể của tội sản xuất trái phép chất ma tuý cũng phải đảm bảo các yếu tố (điều kiện) cần và đủ như: độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các Điều 12, 13 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đối với tội sản xuất trái phép chất ma tuý, chỉ những người sau đây mới có thể là chủ thể của tội phạm này:

Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội sản xuất trái phép chất ma tuý quy định tại khoản 1 Điều

193 Bộ

luật hình sự, vì khoản 1 Điều 193 Bộ

luật hình sự

là tội phạm

nghiêm trọng và theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Chỉ người đủ 16 tuổi trở lên mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội sản xuất trái phép chất ma tuý theo khoản 1 Điều 193 Bộ luật hình sự.

Người từ đủ 14 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội sản xuất trái phép chất ma tuý thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 của Điều 193 Bộ luật hình sự, vì các trường hợp phạm tọi này là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm

Khách thể của tội sản xuất trái phép chất ma tuý là chế độ quản lý của Nhà nước về việc chế xuất, điều chế, pha chế chất ma tuý. Việc sản xuất chất ma tuý dùng vào việc chữa bệnh hoặc mục đích xã hội phải được Nhà nước cho phép. Hiện nay, việc sản xuất một số chất ma tuý chủ yếu trong lĩnh vực y tế nhằm mục đích chữa bệnh dưới dạng thuốc tân dược và được quy định rất chặt chẽ từ khâu sản xuất đến khâu quản lý, bán và sử dụng.

Đối tượng tác động của tội phạm này là các chất ma tuý, các nguyên liệu có chứa chất ma tuý và các tiền chất ma tuý...


Các chất ma tuý là các chất hoá học nguồn tự nhiên hoặc nhân tạo khi xâm nhập cơ thể con người sẽ có tác dụng làm thay đổi tâm trạng, ý thức và trí tuệ, làm con người bị lệ thuộc vào chúng, và cuối cùng gây nên những tổn thương cho từng cá nhân và cộng đồng.8

Các chất ma tuý được liệt kê trong các bảng 1, bảng 2, bảng 3 và bảng 4 danh mục các chất ma tuý, chất hướng thần, tiền chất theo quy định của Công ước quốc tế 1961; 1971; 1988. Công ước này Việt Nam đã tham

gia theo quyết định số

798-QĐ/CTN ngày 1-9-1997 của Chủ

tịch Nước

cộng hoà xã hội Việt Nam và

Nghị định

của Chính phủ Số 67/2001/NĐ-CP

ngày 01 tháng 10 năm 2001Ban hành các danh mục chất ma tuý và tiền chất 9

ở nước ta, các chất ma tuý thường gặp là thuốc phiện, Hêrôin,

Morphin, cần sa và một số

loại ma tuý

ở dạng thuốc tân dược như:

Suzusen, Dolargan, Methamphetamin...

3. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm

a. Hành vi khách quan.

Người phạm tội sản xuất trái phép chất ma tuý có thể thực hiện một hoặc một số hành vi để tạo ra chất ma tuý. Các hành vi đó là chiết xuất, điều chế...

Chiết xuất chất ma tuý

là hành vi chiết xuất quả

thuốc phiện lấy

nhựa loãng màu trắng từ

quả

thuốc phiện rồi sấy khô trong điều kiện

không khí bình thường và tạo thành nhựa thuốc phiện; tách tinh chất từ

nhựa thuốc phiện để lấy chất alkaloid; tách tinh chất từ lá, hoa, quả của cây cần sa để lấy nhựa cần sa (Hashich), tinh dầu cần sa (Dầu Hashich);

tách tinh chất từ lá của cây cô ca để lấy tinh dầu cô ca ( Cocaine)... Nói

chung là hành vi tách tinh chất từ các cây thảo mộc để lấy nhựa, tinh dầu rồi từ các chất này điều chế thành các chất ma tuý.

Điều chế chất ma tuý là dùng phương pháp tạo phản ứng hoá học từ các tiền chất ma tuý, các chất hoá học cần thiết để tạo ra các chất ma tuý như:

Từ nhựa thuốc phiện tạo ra Morphine bằng cách trộn thuốc phiện

với vôi toả (calciumhyđroxide) rồi hoà tan với nước. Hỗn hợp này, một

phần dùng để chiết xuất Morphine và Cô-đê-in (Codeine), phần khác dùng

để chiết xuất Thê-ba-in (Thebaine) và Pa-pa-ve-rin (Papaverine). Khi đã

điều chế được Morphine thì từ Morphine lại điều chế thành Heroin. Thông

thường cứ 10 Kg thuốc sống chiết xuất được 1 Kg Morphine và từ 1Kg

Morphine điều chế được 1 Kg Heroin10

8 Xem Vũ Ngọc Bừng “các chất ma tuý” NXB Công an nhân dân, năm 1994. Tr 6.


9 Xem phụ lục “Nghị định c ủ a C h í n h p h ủ

S ố 6 7 / 2 0 0 1 / N Đ - C P n g à y 0 1 t h á n g 1 0 n ă m 2 0 0 1 B a n

h à n h c á c d a n h m ụ c c h ấ t m a t u ý v à t i ề n c h ấ t ”

10 Xem Vũ Ngọc Bững “Các chất ma tuý” NXB Công an nhân dân. năm 1994. Tr11-27.


Từ

nhau:

lá Cô ca điều chế thành Cocaine bằng nhiều phương pháp khác

Ngâm trộn lẫn lá coca với nước và vôi để tạo thành hỗn hợp của

phản ứng alkaline trong bình cao áp. Hỗn hợp này nghiền nát và cho thêm vào một số dầu hoả ( hoặc hydrocarbon) và khuấy đều.

Tách dầu hoả và vắt kho phần lá coca. Thêm một số nước acid hoá vào để tách dầu hoả. các alkaloid hoà tan trong phần dung dịch nước. Dùng ammonia kết tủa các alkaloid kiềm. Cocaine sẽ kết tủa ở giai đoạn này và kết quả là tạo thành kem coca.

Để sản xuất Cocaine hydrochloride, kem coca hoà tan tại trong acid sulphuric loãng. Potassium permanaganate có thể them vào cho tới khi xuất hiện màu hồng trong dung dịch. Dung dịch để lắng và sau đó lọc. Kết tủa Cocaine kiềm và các alkaloid khác bằng ammonia. Phần kết tủa đem lọc, rửa bằng nước và phơi khô.


Cocaine kiềm thô đem hoà tan trong diethyl ether. Dung dịch này mang lọc và cho thêm acid hydrochloric đặc cùng acetone. Cocaine hydrochoride sẽ kết tủa và đem lọc sấy khô.

Hiệu quả của quy trình trên đạt được như sau: Cứ 145 Kg lá coca khô thì điều chế được khoảng 1 Kg Cocaine HCL11

Trong một số sách báo hiện nay, còn dùng các thuật ngữ khác để biểu hiện hành vi khách quan của tội sản xuất trái phép chất ma tuý như: Bào chế, pha chế, nhưng thực chất các thuật ngữ này đều có nội dung như điều chế.

Không coi là sản xuất trái phép chất ma tuý nếu người phạm tội chỉ pha nước với các chất ma tuý thể rắn, thể bột... thành thể lỏng để tiện việc sử dụng như: pha nước với bột heroin, pha nước với thuốc phiện để tiêm chích.

Sản xuất trái phép chất ma tuý là sản xuất không được phép của Nhà nước. Như vậy việc sản xuất ma tuý có trường hợp được Nhà nước cho phép. Hiện nay, việc sản xuất một số chất ma tuý ( chủ yếu là các chất hướng thần) trong lĩnh vực y tế nhằm mục đích chữa bệnh phải tuân theo các quy định nghiêm ngặt của Nhà nước.

Thực tiẽn xét xử cho thấy hành vi sản xuất trái phép chất ma tuý ít xẩy ra. Tuy nhiên, trong những năm qua các cơ quan chức năng cũng đã phát hiện ở Thành phố Hồ Chí Minh một số người ngước ngoài lợi dụng chính

sách đầu tư của Nhà nước đã xây dựng Nhà máy sản xuất mì chính (bôt

ngọt) để sản xuất 234 Kg Methamphetamin, còn ở thành phố Hà Nội, một


11 Sách đã dẫn. Tr 62-63


số người đã sản xuất 1,4 Kg Codein. Ngoài hai vụ án trên, cho đến nay các cơ quan chức năng chưa phát hiện được hành vi sản xuất trái phép chất ma tuý nào khác.

b. Hậu quả

Hậu quả của của hành vi sản xuất trái phép chất ma tuý là những

thiệt hại đến các quy định của Nhà nước về việc sản xuất chất ma tuý. Hậu quả này có thể đã xay ra hoặc nếu không được ngăn chặn thì sẽ xẩy ra. Hậu quả của hành vi sản xuất trái phép chất ma tuý không phải là số lượng chất ma tuý được xản xuất nhiều hay ít. Tuy nhiên, nếu số lượng chất ma tuý càng nhiều thì tác hại cho xã hội càng lớn.

Hậu quả của hành vi sản xuất trái phép chất ma tuý không phải là

dấu hiệu bắt buộc để định tội mà chỉ có ý nghĩa xem xét khi quyết định

hình phạt. Tội phạm được coi là hoàn thành từ khi người phạm tội có hành vi sản xuất trái phép ra chất ma tuý, không phân biệt só lượng nhiều hay ít. Nếu người phạm tội đã thực hiện hành vi chiết xuất, điều chế nhằm sản xuất ra chất ma tuý nhưng chưa tạo ra được chất ma tuý mà mình mong muốn thì coi là phạm tội chưa đạt.

4. Các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm

Người phạm tội sản xuất trái phép chất ma tuý thực hiện hành vi

phạm tội của mình do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình bị pháp

luật cấm, thấy trước được tác hại của hành vi sản xuất các chất ma tuý nhưng vẫn thực hiện. Như vậy, đối với hành vi sản xuất tội phạm chất ma tuý chỉ có thể được thực hiện do cố ý trực tiếp. Không có trường hợp nào do cố ý gián tiếp.


B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

1. Phạm tội sản xuất trái phép chất ma tuý không có các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt

Là trường hợp sản xuất trái phép chất ma tuý không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 4 của điều luật, là cấu thành cơ bản của tội phạm, được quy định tại khoản 1 Điều 193 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ hai đến bảy năm tù, là tội phạm nghiêm trọng.

So với khoản 1 Điều 185b Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội

phạm này, thì khoản 1 Điều 193 Bộ

luật hình sự

năm 1999 nhẹ

hơn và

được áp dụng đối với hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7- 2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý.

Cũng như đối với các tội phạm khác, khi quyết định hình phạt đối

với người phạm tội theo khoản 1 Điều 193 Bộ luật hình sự, Toà án phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật

Xem tất cả 262 trang.

Ngày đăng: 22/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí