gây thiệt hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân. Trong trường hợp này, nếu người bị bức cung là người làm chứng hoặc người bị hại trong vụ án hình sự mà khai báo gian dối thì được miễn trách nhiệm hình sự về tội khai báo gian dối.
3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm
a. Hành vi khách quan
Bức cung là cưỡng bức người bị thẩm vấn phải khai theo ý muốn
của người hỏi cung. Hành vi cưỡng bức của người có thẩm quyền trong
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, có thể được biểu hiện như sau:
Có thể bạn quan tâm!
- Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 3 Điều 296 Bộ Luật Hình Sự
- Phạm Tội Thuộc Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 1 Điều 297 Bộ Luật Hình Sự
- Phạm Tội Thuộc Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 1 Điều 298 Bộ Luật Hình Sự
- Phạm Tội Thuộc Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 1 Điều 300 Bộ Luật Hình Sự
- Người Nào Trực Tiếp Quản Lý, Canh Gác, Dẫn Giải Người Bị Giam, Mà Thiếu Trách Nhiệm Để Người Đó Trốn Gây Hậu Quả Nghiêm Trọng, Thì
- Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 3 Điều 301 Bộ Luật Hình Sự
Xem toàn bộ 250 trang tài liệu này.
Đe doạ dùng vũ lực, uy hiếp tinh thần hoặc đe doạ sẽ gây thiệt hại về vật chất đối với người tham gia tố tụng như: Nếu không khai sai sự
thật thì sẽ bị nhốt vào phòng biệt giam, sẽ để đói, để khát, không cho nhận quà… (đối với bị can, bị cáo đang bị tạm giam); nếu khai sai sự thật thì sẽ
cho công bố thư, ảnh, lời nói, hành động… liên quan đến bí mật đời tư;
không cho lên lương, không cơ cấu, bổ nhiệm, đề bạt hoặc sẽ bị thiệt hại về những quyền lợi khác (đối với người tham gia tố tụng khác).
Hành vi đe doạ dùng vũ lực, uy hiếp tinh thần hoặc đe doạ gây thiệt hại vật chất đối với người bị thẩm vấn chỉ có tính chất đe doạ, nếu người
bị thẩm vấn không khai sai sự thật thì người thẩm vấn cũng không thực
hiện lời đe doạ.
b. Hậu quả
Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. Nếu hành vi bức cung chưa làm cho người bị bức cung khai sai sự thật và chưa gây ra hậu quả nghiêm trọng thì hành vi bức cung chưa cấu thành tội phạm.
Người bị bức cung khai sai sự thật là khai không đúng các tình tiết
khách quan của vụ án, khai sai sự thật là hành vi của người bị bức cung
nhưng nó lại là hậu quả của hành vi bức cung, nó chính là mong muốn của người có hành vi bức cung. Nếu người bị bức cung vẫn không khai sai sự thật thì hành vi bức cung cũng chưa cấu thành tội phạm này. Việc người bị bức cung khai sai sự thật là dấu hiệu bắt buộc và nếu thiếu nó thì hành vi bức cung chưa cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, hành vi bức cung là hành vi vi phạm pháp luật, và tuỳ trường hợp cụ thể mà người có hành vi đó có thể
bị xử lý kỷ luật hoặc vụ án đó sẽ bị huỷ để điều tra lại hoặc xét xử vì vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Hậu quả nghiêm trọng do hành vi bức cung gây ra là những thiệt hại nghiêm trọng về vật chất và phi vật chất cho xã hội. Những thiệt hại vật chất có thể tính bằng một sô tiền, nhưng đối với thiệt hại phi vật chất do hành vi bức cung gây ra, mà những thiệt hại này mới là chủ yếu thì không thể tính bằng tiền được như: do người bị thẩm vấn khai sai sự thật nên có thể làm oan người vô tội, hoặc bỏ lọt người phạm tội, làm mất uy tín của
cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó khi xác định hậu quả nghiêm trọng do
hành vi bức cung gây ra, không chỉ căn cứ vào những thiệt hại về vật chất, mà phải xem xét đến các thiệt hại phi vật chất của từng trường hợp cụ thể mà xác định hậu quả đó đã là nghiêm trọng hay chưa.
Đối với các thiệt hại về vật chất hoặc thể chất, có thể tham khảo Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25-12-2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV "Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự để xác định hậu quả nghiêm trọng do hành vi bức cung gây ra.
c. Các dấu hiệu khách quan khác
Đối với tội bức cung, ngoài hành vi khách quan, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, nhà làm luật còn quy định một số dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành, đó là: thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng phải là trái pháp luật.
Nếu trong hoạt động điều tra, đặc biệt trong khi thẩm vấn người thẩm vấn có thể sử dụng kỹ năng xét hỏi để người tham gia tố tụng phải khai đúng sự thật về các tình tiết của vụ án thì không phải là trái pháp luật.
Một dấu hiệu khách quan khác cũng rất quan trọng và cũng còn ý kiến khác nhau, đó là hành vi bức cung được thực hiện đối với tất cả vụ án hay chỉ đối với vụ án hình sự ? Để trả lời câu hỏi trên, cần phải làm rõ khái niệm “thẩm vấn” trong hoạt động tố tụng.
Thẩm vấn là một hình thức điều tra bằng lời nói (hỏi và đáp) như: lấy lời khai của bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự, người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện của những người này.
Khái niệm thẩm vấn, nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì chỉ là hoạt động xét hỏi của Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên đối với những người tham gia tố tụng tại phiên toà. Thẩm vấn là một hình thức điều tra công khai, trực diện giữa Hội đồng xét xử và Kiểm sát viên với người tham gia tố tụng. Khái niệm thẩm vấn trước đây thường được dùng như là một giai đoạn
của tố tụng tại phiên toà sau khi đã kết thúc phần thủ tục tại phiên toà.
Thông thường, chủ toạ phiên toà sau khi đã kiểm tra căn cước người tham
gia tố
tụng; giải thích quyền và nghĩa vụ
cho những người tham gia tố
tụng… thì tuyên bố kết thúc phần thủ tục, chuyển sang phần thẩm vấn và giới thiệu Kiểm sát viên công bố bản cáo trạng rồi tiến hành việc thẩm vấn. Hiện nay, mặc dù Bộ luật tố tụng hình sự không còn quy định giai đoạn thẩm vấn tại phiên toà mà quy định là giai đoạn “xét hỏi” nhưng một số Thẩm phán vẫn quen tuyên bố “chuyển sang phần thẩm vấn”. Nếu hiểu khái niệm “thẩm vấn” hiểu theo nghĩa này thì chỉ có Hội đồng xét xử mới có thể là chủ thể của tội phạm này. Hiện nay khái niệm “thẩm vấn” được một số nhà khoa học dùng khi cần phân biệt giữa hai hệ thống pháp luật (luật án lệ với luật thành văn; tố tụng tranh tụng với tố tụng thẩm vấn) trong một số sách báo. Bộ luật tố tụng hình sự không không dùng thuật ngữ “thẩm vấn” mà tuỳ từng giai đoạn tố tụng mà dùng thuật ngữ “hỏi cung, lấy lời khai” (trong giai đoạn điều tra, truy tố); “xét hỏi” (tại phiên toà). Tinh thần của Điều 299 Bộ luật hình sự không giới hạn bởi việc xét hỏi tại phiên toà (thẩm vấn), mà bao gồm cả việc lấy lời khai của bị can, bị
cáo, người bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người làm chứng,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện của những người này. Do đó cần phải hiểu khái niệm “thẩm vấn” theo nghĩa rộng, tức là bao gồm việc hỏi cung, lấy lời khai, xét hỏi tại phiên toà.
Thẩm vấn là khái niệm chỉ
có trong hoạt động tố
tụng hình sự;
người có quyền thẩm vấn là những người tiến hành tố tụng và người bị thẩm vấn là bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ
án và
người đại diện của những người này. Do đó nếu trong các vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính nếu người tiến hành tố tụng có những hành vi
trái pháp luật nhằm làm cho người tham gia tố tụng khai không đúng sự
thật thì không phải là đối tượng điều chỉnh của tội phạm này. Trước đây,
Điều 235 Bộ
luật hình sự
năm 1985 cũng chỉ
quy định: “người nào tiến
hành điều tra”, nay Điều 299 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “người
nào tiến hành điều tra, truy tố, xét xử” nhưng không có nghĩa là bao gồm cả
hành vi bức cung trong các vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính;
trong các vụ án này không có khái niệm “hỏi cung” nên cũng không thể có bức cung.
4. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm
Người phạm tội bức cung thực hiện hành vi phạm tội của mình là do cố ý (cố ý trực tiếp), tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.
Động cơ phạm tội cũng không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu
thành tội phạm này nhưng việc xác định động cơ của người phạm tội là rất cần thiết. Nếu người phạm tội vì động cơ cá nhân hoặc động xấu khác thì sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội vì động cơ nóng vội, muốn hoàn thành việc điều tra kết thúc vụ án.
B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 299 Bộ luật hình sự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 299 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm, là tội phạm ít nghiêm trọng.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 1 Điều 299 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội không vì động cơ xấu mà chỉ vì nôn nóng, thành tích, muốn hoàn thành nhiệm vụ và có nhiều tình tiết giảm
nhẹ
quy định tại Điều 46 Bộ
luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng
hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt dưới sáu tháng tù, nhưng không được dưới ba tháng tù. Nếu người phạm tội có vì động cơ vụ lợi hoặc động cơ khác và nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm
nhẹ
hoặc nếu có nhưng mức độ
giảm nhẹ
không đáng kể, thì có thể bị
phạt đến ba năm tù.
2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 299 Bộ luật hình sự
Khoản 2 của điều luật nhà làm luật chỉ quy định một tình tiết là yếu tố định khung hình phạt, đó là gây hậu quả rất nghiêm trọng.
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như một số trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng quy định trong các điều luật ở chương này nên có thể tham khảo Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC- BCA-BTP ngày 25-12-2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV "Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự để xác định hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi bức cung gây ra.
Tuy nhiên, cũng như trường hợp hậu quả nghiêm trọng do hành vi
bức cung gây ra, khi xác định hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt
nghiêm trọng cần xem xét đến những thiệt hại phi vật chất do người bị thẩm vấn khai sai sự thật ra ra như: do người làm chứng khai sai sự thật nên dẫn đến việc kết án oan người không có tội hoặc để lọt tội phạm nguy hiểm; bị bức cung mà bị cáo khai sai sự thật dẫn đến chính bản thân họ bị kết án oan.
Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 299 Bộ luật hình sự, người phạm tội có thể bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm, là tội phạm nghiêm trọng.
Khi quyết định hình phạt, nếu người phạm tội nếu người phạm tội
không vì động cơ
xấu mà chỉ
vì nôn nóng, thành tích, muốn hoàn thành
nhiệm vụ và có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình
sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng
không đáng kể, thì có thể được áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự phạt dưới hai năm tù nhưng không được dưới sáu tháng tù. Nếu vì động cơ vụ lợi hoặc động cơ khác và có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến bảy năm tù.
3. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 299 Bộ luật hình sự
Khoản 3 Điều 299 Bộ luật hình sự cũng chỉ quy định một tình tiết là yếu tố định khung hình phạt, đó là gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
Trường hợp phạm tội này cũng có thể tham khảo Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25-12-2001 của
Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tôic cao, Bộ Công an, Bộ
Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV "Các tội
xâm phạm sở
hữu" của Bộ
luật hình sự
để xác định hậu quả
đặc biệt
nghiêm trọng do hành vi bức cung gây ra.
Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 299 Bộ luật hình sự, người phạm tội có thể bị phạt tù từ năm năm đến mười năm, là tội phạm rất nghiêm trọng.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu nếu người phạm tội không vì động cơ xấu mà chỉ vì nôn nóng, thành tích, muốn hoàn
thành nhiệm vụ và có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ
luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự phạt dưới năm năm tù nhưng không được dưới hai năm tù; nếu vì động cơ vụ lợi hoặc động cơ khác và có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến mười năm tù.
4. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội
Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm. Khi áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ đối với người phạm tội bức cung cần
phải căn cứ
vào từng trường hợp cụ
thể
mà người phạm tội đang đảm
nhiệm các chức vụ gì và nếu để họ tiếp tục giữ các chức vụ đó sau khi chấp hành xong hình phạt tù thì họ có thể lại có hành vi bức cung. Đối với các chức vụ không có liên quan đến hành vi bức cung, thì không nhất thiết Toà án phải cấm đảm nhiệm.
8. TỘI LÀM SAI LỆCH HỒ SƠ VỤ ÁN
Điều 300. Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án
1. Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án, nhân viên tư pháp khác, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự nào mà thêm, bớt, sửa đổi, đánh tráo, huỷ, làm hư hỏng các tài
liệu, vật chứng của vụ án hoặc bằng các thủ đoạn khác nhằm làm sai lệch nội dung hồ sơ vụ án, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
a) Có tổ chức;
b) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm
trọng, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ, làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
Định nghĩa: Làm sai lệch hồ sơ vụ án là hành vi thêm, bớt, sửa đổi, đánh tráo, huỷ, làm hư hỏng các tài liệu, vật chứng của vụ án hoặc bằng các thủ đoạn khác nhằm làm sai lệch nội dung hồ sơ vụ án của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án, nhân viên tư pháp khác, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự.
Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án là tội phạm đã được quy định tại Điều 236 Bộ luật hình sự năm 1985.
So với Điều 236 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 300 Bộ luật hình sự năm 1999 về tội phạm này, có những sửa đổi, bổ sung như sau:
Điều 236 Bộ luật hình sự năm 1985 cấu tạo hai khoản, còn Điều 300 Bộ luật hình sự năm 1999 cấu tạo thành 4 khoản trong đó khoản 4 là hình phạt bổ sung, bổ sung khoản 3 với tình tiết là yếu tố định khung hình phạt
là“gây hậu quả
rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng”; bổ
sung
thêm tình tiết “phạm tội có tổ
chức” là yếu tố
định khung hình phạt ở
khoản 2 Điều 300 Bộ luật hình sự năm 1999; bổ sung một số đối tượng là chủ thể của tội phạm này, đó là Thư ký Toà án; sửa đổi chủ thể “luật sư, bào chữa viên” thành “người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự” cho phù hợp với tên gọi của họ theo Bộ luật tố tụng hình sự; sửa đổi,
bổ sung một số hành vi khách quan cho phù hợp với yêu cầu đấu tranh
phòng chống loại tội phạm này.
Về hình phạt, do yêu cầu của việc đấu tranh phòng chống loại
tội phạm này ngoài việc quy định thêm khung hình phạt tăng nặng thì mức hình phạt cao nhất của tội phạm này là mười lăm năm tù thay vì chỉ có bảy năm tù như Điều 236 Bộ luật hình sự năm 1985; khung hình
phạt ở mỗi khoản cũng sửa đổi theo hướng nặng hơn so với Điều 236 Bộ luật hình sự năm 1985.
A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, và được quy định cụ
thể ngay trong điều văn của điều luật như: Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án, nhân viên tư pháp khác, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự mới có thể là chủ thể của tội phạm này.
Trong số
những người có thể
là chủ
thể
của tội phạm này, có cả
những người tiến hành tố
tụng và người tham gia tố
tụng, nhưng không
phải tất cả những người tham gia tố tụng đều có thể là chủ thể của tội phạm này, mà chỉ có người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự mới là chủ thể của tội phạm này, vì những người này mới có điều kiện tiếp xúc hồ sơ vụ án. Theo quy định tại Điều 56 Bộ luật tố tụng hình sự thì người bào chữa là Luật sư; Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; Bào chữa viên nhân dân và theo quy định tại Điều 59 Bộ luật tố tụng hình sự thì người bảo vệ quyền lợi của đương sự là Luật sư,
bào chữa viên nhân dân hoặc người khác được Cơ kiểm sát, Toà án chấp nhận.
quan điều tra, Viện
Đối với những người tiến hành tố tụng, ngoài Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án, thì còn có cả nhân viên tư pháp khác không phải là người tiến hành tố tụng. Vậy nhân viên tư pháp nói ở đây bao gồm những người nào ? Nhân viên tư pháp nói ở đây phải là những có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng và có điều kiện tiếp xúc hồ sơ vụ án thì mới có thể làm sai lệch hồ sơ vụ án được. Do đó họ chỉ có thể
là Thủ
trưởng, Phó thủ
trưởng Cơ
quan điều tra; Viện trưởng, Phó viện
trưởng Viện kiểm sát; Chánh án, Phó chánh án; chuyên viên pháp lý Toà án; nhân viên văn thư khi giao nhận hồ sơ vụ án; cán bộ Viện kiểm sát. Khi Quốc hội thông qua Bộ luật hình sự năm 1999 thì Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 chưa được sửa đổi, bổ sung nên Bộ luật tố tụng hình sự năm
1988 chỉ quy định người tiến hành tố tụng bao gồm Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án; nay Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra; Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát; Chánh án, Phó chánh án Toà án