Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự - 2

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Khái quát chung về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự

Chương 2: Những quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự

Chương 3: Thực trạng hoạt động bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự ở Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Chương 1‌

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU BẰNG BIỆN PHÁP DÂN SỰ


1.1. KHÁI NIỆM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU VÀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU

1.1.1. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.

Cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ trên thế giới, quan hệ sở hữu ngày càng phát triển đến đỉnh cao dẫn đến sự ra đời của một quan hệ sở hữu đặc biệt đó là sở hữu trí tuệ. Sở hữu trí tuệ ngày càng có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội, là động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Những sản phẩm trí tuệ này có thể mua bán, chuyển giao quyền sử dụng, cho phép sử dụng, tặng cho, để lại thừa kế… tương tự như bất kỳ loại hình tài sản hữu hình nào khác. Quyền sở hữu trí tuệ bao gồm quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền đối với giống cây trồng và quyền sở hữu công nghiệp. Trong các quyền đã liệt kê, quyền sở hữu công nghiệp là quyền sở hữu của các cá nhân, tổ chức đối với các tài sản là đối tượng của sở hữu công nghiệp bao gồm sáng chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, bí mật kinh doanh, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh. Pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam hiện hành đã tập hợp và đưa ra phạm vi quyền sở hữu công nghiệp khá rộng so với trước đây, thể hiện trong khái niệm tương đối khái quát về quyền sở hữu công nghiệp, được quy định tại Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005: "Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh". Trong các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp được liệt kê thì nhãn hiệu là đối tượng gắn chặt nhất với

quá trình lưu thông hàng hóa. Bằng nhãn hiệu, nhà sản xuất có thể đánh dấu hàng hóa mà mình sản xuất khi đưa ra thị trường, có thể quảng cáo thông qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc thông tin quảng cáo hay trong các giấy tờ giao dịch, v.v… nhằm đẩy mạnh quá trình lưu thông hàng hóa, tăng doanh số bán hàng. Cũng thông qua nhãn hiệu, người tiêu dùng có thể dễ dàng lựa chọn hàng hóa phù hợp với nhu cầu, sở thích cũng như chất lượng mà mình mong muốn.

Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự - 2

Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu theo pháp luật mỗi nước cũng như trong các điều ước quốc tế có khác nhau vì bị chi phối bởi quan điểm về các dấu hiệu cấu thành nên nhãn hiệu. Nếu mở rộng các dấu hiệu cấu thành nên nhãn hiệu thì phạm vi quyền đối với nhãn hiệu được mở rộng và ngược lại. Hiện nay trên thế giới có nhiều khái niệm nhãn hiệu theo những góc độ khác nhau. Có thể kể đến các điều ước quốc tế đa phương và song phương điều chỉnh các lĩnh vực liên quan đến nhãn hiệu khá nhiều như: Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm 1883 với các quy định về sở hữu công nghiệp nói chung trong đó có nhãn hiệu. Nội dung công ước Paris đề cập đến bốn vấn đề chủ yếu là nguyên tắc đối xử quốc gia; quyền ưu tiên; một số nguyên tắc chung đối với bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp mà các nước thành viên phải tuân thủ; các quy định hành chính phục vụ cho việc thi hành công ước. Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu năm 1891 và Nghị định thư liên quan đến Thỏa ước Madrid năm 1989 quy định chủ yếu về hoạt động của hệ thống đăng ký quốc tế bao gồm việc nộp đơn đăng ký quốc tế; hiệu lực của đăng ký quốc tế; việc từ chối bảo hộ; quy định về việc thay đổi, hủy bỏ, đình chỉ hiệu lực đăng ký quốc tế; các điều kiện tham gia Thỏa ước Madrid và Nghị định thư Madrid.

Các điều ước quốc tế nêu trên chưa đưa ra một định nghĩa cụ thể về nhãn hiệu hay một khái niệm rõ ràng về quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu mà thông qua các quy định về xác lập quyền sở hữu công nghiệp,

quy định về trình tự thủ tục xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu cho thấy quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu đã được ghi nhận.

Hiệp ước Luật nhãn hiệu năm 1994 ra đời với mục đích đơn giản hóa và hài hòa hóa các quy định về thủ tục và yêu cầu hành chính của hệ thống đăng ký nhãn hiệu quốc gia và khu vực. Mặc dù Hiệp ước không đưa ra một khái niệm cụ thể về nhãn hiệu nhưng thông qua Điều 2 về quy định liệt kê các nhãn hiệu được áp dụng, Hiệp ước đã đưa ra các đặc tính bản chất của nhãn hiệu: "được cấu tạo bởi các ký hiệu nhìn thấy được". Cũng tại Điều 2, khoản 1 điểm b của Hiệp ước: "Hiệp ước này không áp dụng đối với nhãn hiệu là ảnh chụp ba chiều và nhãn hiệu vô hình, cụ thể là nhãn hiệu âm thanh và nhãn hiệu mùi". Cách hiểu về nhãn hiệu theo Hiệp ước Luật nhãn hiệu chỉ giới hạn trong "các ký hiệu nhìn thấy được" mà không bao gồm nhãn hiệu là hình ảnh ba chiều, nhãn hiệu âm thanh, nhãn hiệu mùi. Tuy nhiên, Hiệp ước nhắc đến nhãn hiệu ba chiều sẽ được thừa nhận "với điều kiện là chỉ có những bên ký kết chấp nhận việc đăng ký nhãn hiệu ba chiều, mới bắt buộc phải áp dụng Hiệp ước này đối với các nhãn hiệu đó" Cách hiểu như vậy đã thu hẹp phạm vi khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu được thừa nhận.

Đến Hiệp định TRIPS năm 1995 với những tiến bộ mang ý nghĩa to lớn trong đó có mang lại cho sở hữu trí tuệ những đóng góp nhất định, Hiệp định đã đưa ra khái niệm nhãn hiệu tại khoản 1 Điều 15:

Bất kỳ một dấu hiệu, hoặc tổ hợp dấu hiệu nào, có khả năng phân biệt hàng hóa. Các dấu hiệu đó đặc biệt là các từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình họa và tổ hợp các mầu sắc cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu hàng hóa. Trường hợp bản thân các dấu hiệu không có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ tương ứng, các thành viên có thể quy định rằng khả năng đăng ký thuộc khả năng phân biệt đạt được thông qua việc sử dụng. Các thành viên có thể quy định rằng điều kiện để được đăng ký là các dấu hiệu phải là các dấu hiệu nhìn thấy được [29].

Khái niệm nhãn hiệu của TRIPS được mở rộng phạm vi cũng như chi tiết hơn rất nhiều so với cách hiểu trước kia thông qua việc liệt kê các dấu hiệu cấu thành nên nhãn hiệu, có thể nhận thấy khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu cũng được mở rộng hơn so với Hiệp ước Luật Nhãn hiệu. Dưới một góc độ nhất định, thông qua khái niệm nhãn hiệu, thông qua liệt kê các đối tượng có khả năng bảo hộ thì cách hiểu về quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu trong TRIPS đã thể hiện sự tiến bộ và là cơ sở để các quốc gia xây dựng cho mình một khái niệm riêng phù hợp.

Ở mỗi quốc gia có những quy định, quan điểm tiếp cận riêng liên quan đến các yếu tố có thể phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các chủ thể kinh doanh, từ đó có những điểm khác biệt nhất định trong quan niệm về quyền đối với nhãn hiệu. Ví dụ: ở Australia và Hoa Kỳ, âm thanh và mùi vị có thể được đăng ký nhãn hiệu hay nhãn hiệu được đăng ký ngay khi chúng không có sẵn tính phân biệt, với điều kiện nhãn hiệu có được tính phân biệt thông qua sử dụng, quan niệm về quyền đối với nhãn hiệu ở những nước này được mở rộng rất nhiều. Tuy nhiên, ở hầu hết các nước chỉ có tên gọi, hình ảnh, màu sắc mới được thừa nhận là một trong số những yếu tố cấu thành nên nhãn hiệu và như vậy, quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu cũng thu hẹp trong quyền đối với các dấu hiệu cấu thành đó.

Ở Việt Nam, trước đây trong Bộ luật Dân sự 1995, tại Điều 785 quy định "Nhãn hiệu hàng hóa là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc". Xét về nội dung, Điều 785 Bộ luật Dân sự 1995 quy định có tính chất mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các cơ sở sản xuất kinh doanh. Quy định này đã coi các dấu hiệu có thể phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất kinh doanh khác nhau đều có thể là nhãn hiệu. Tuy nhiên, nếu so sánh Điều 785 với Điều 15 của Hiệp định TRIPS thì ta thấy còn bất cập. Điều 785 Bộ luật Dân sự 1995 đã quy định hạn chế một số yếu tố có thể được tiến hành đăng ký làm nhãn hiệu như tên riêng, các chữ

cái, chữ số hoặc tổ hợp dấu hiệu nào đó có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ, v.v... còn Hiệp định TRIPS lại quy định là bất kỳ dấu hiệu nào.

Xuất phát từ đòi hỏi thực tế và để thúc đẩy nhanh cho tiến trình hội nhập, Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được ký kết. Trong nội dung Hiệp định có điều khoản quy định khái niệm nhãn hiệu:

Nhãn hiệu hàng hóa được cấu thành bởi dấu hiệu bất kỳ hoặc sự kết hợp bất kỳ của các dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một người với hàng hóa hoặc dịch vụ của người khác bao gồm từ ngữ, tên người, hình ảnh, chữ cái, chữ số, tổ hợp màu sắc, các yếu tố hình hoặc hình dạng của bao bì hàng hóa. Nhãn hiệu hàng hóa bao gồm cả nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận [28].

Cách hiểu này có tính chất khái quát và phù hợp hơn với chuẩn mực quốc tế theo quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) về nhãn hiệu và quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, tức là phù hợp với TRIPS. Khái niệm này mở rộng hơn về phạm vi các yếu tố có thể được đăng ký và bảo hộ (tức là được thừa nhận quyền đối với nhãn hiệu) không chỉ là những từ ngữ, hình ảnh thông thường như trước mà còn có thể sử dụng cả chữ cái, chữ số, tổ hợp màu sắc, các yếu tố hình.

Tiếp thu những quan điểm tiến bộ trong các điều ước quốc tế về khái niệm nhãn hiệu và quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, Luật Sở hữu trí tuệ 2005 tại khoản 16 Điều 4 giải thích "nhãn hiệu" được hiểu "là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau" và cụ thể hơn trong Điều 72 khi nhắc đến điều kiện chung đối với nhãn hiệu được bảo hộ, đó là "dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc". Các dấu hiệu này tiếp tục được làm rõ thông qua Điều 73, Điều 74 quy định về dấu hiệu không được bảo hộ với danh

nghĩa nhãn hiệu, về khả năng phân biệt của nhãn hiệu. Khái niệm về nhãn hiệu trong Luật Sở hữu trí tuệ 2005 đã có những thay đổi nhất định so với pháp luật trước kia theo hướng tích cực và gần hơn với quy định trong Hiệp định TRIPS, cho thấy hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam nói chung cũng như quy định về nhãn hiệu nói riêng đang từng bước chuyển biến theo sự hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời tạo ra cơ sở và là điều kiện quan trọng giúp cho việc thực thi luật sở hữu trí tuệ cũng như pháp luật về nhãn hiệu có hiệu quả.

Từ những phân tích ở trên, khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu có thể được hiểu một cách chung nhất là quyền của các chủ thể do pháp luật quy định hoặc thừa nhận đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ với các chủ thể khác, bao gồm dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc.

1.1.2. Khái niệm bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu

Giữa hai khái niệm bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu có mối quan hệ mật thiết với nhau thể hiện ở chỗ bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu theo nghĩa rộng bao gồm cả việc đăng ký xác lập quyền, trình tự khai thác, sử dụng nhãn hiệu và các biện pháp bảo vệ nhãn hiệu khỏi các hành vi xâm phạm. Theo nghĩa này, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bao hàm cả bảo vệ quyền. Pháp luật Việt Nam quy định việc bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu được bảo đảm thông qua việc xác lập quyền đối với nhãn hiệu đó (theo nguyên tắc đăng ký trước), tức là để quyền và lợi ích hợp pháp của mình được bảo đảm, chủ sở hữu nhãn hiệu phải tiến hành xác lập quyền đối với nhãn hiệu bằng việc nộp đơn đăng ký đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo trình tự và thủ tục pháp luật quy định và được cấp văn bằng bảo hộ. Chính vì vậy, khi phân tích khái niệm bảo vệ

quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu cần thiết làm rõ khái niệm bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu.

Khái niệm bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu được hiểu là việc nhà nước thông qua các quy định pháp luật xác lập quyền cho chủ sở hữu đối với nhãn hiệu, bảo đảm cho chủ sở hữu khai thác quyền đối với nhãn hiệu một cách hiệu quả và có các biện pháp bảo vệ quyền này khỏi hành vi xâm phạm. Việc xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu được thể hiện dưới hình thức cấp văn bằng bảo hộ, ở Việt Nam văn bằng bảo hộ là Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu. Sau khi tiến hành đăng ký nhãn hiệu và được cấp văn bằng bảo hộ, chủ sở hữu nhãn hiệu sẽ được độc quyền sử dụng (có hạn chế) nhãn hiệu và được pháp luật bảo vệ cho nhãn hiệu đó. Từ thời điểm này, các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu đã được bảo hộ sẽ bị áp dụng các biện pháp xử lý nhất định như biện pháp hành chính, biện pháp dân sự, biện pháp hình sự, biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới liên quan đến nhãn hiệu. Mỗi biện pháp có những nét đặc thù tạo thành hệ thống công cụ pháp lý bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, bảo đảm cho các quy định của pháp luật về nhãn hiệu được thi hành nghiêm chỉnh, có hiệu lực, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước và xã hội, bảo vệ quyền sở hữu của chủ sở hữu nhãn hiệu và đặc biệt để thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ quốc tế về bảo hộ nhãn hiệu.

Từ những phân tích trên, khái niệm bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu có thể được hiểu như sau: Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu là sự tác động bằng pháp luật thông qua việc sử dụng các biện pháp dân sự, biện pháp hành chính, biện pháp hình sự, biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới liên quan đến nhãn hiệu nhằm ngăn chặn, chống lại những hành vi xâm phạm để bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hợp pháp đã được nhà nước công nhận bảo hộ.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 12/10/2023