Luôn tìm cách sao cho sản phẩm mình có sự khác biệt, độc đáo ở điểm nào đó so với sản phẩm cùng loại của các doanh nghiệp khác (giá trị sử dụng, mẫu mã, bao bì).
Một yêu cầu không thể thiếu trong chiến lược sản phẩm của các doanh nghiệp là xây dựng và quảng cáo cho thương hiệu sản phẩm: Là kết quả của quá trình tiếp thị quảng cáo, lâu dài và tốn kém, nhưng nó rất quan trọng một khi sản phẩm của các hãng na ná giống nhau về chất lượng, giá cả thì thương hiệu là cái duy nhất để khách hàng mua hàng của doanh nghiệp mình chứ không mua của người khác. Mặc dù kiểu dáng chất lượng của sản phẩm giống hệt nhau nhưng thương hiệu khác nhau thì bán khác nhau. Thương hiệu có giá trị khác nhau thì chi phí quảng cáo khác nhau. Một thương hiệu mạnh có thể giúp cho doanh nghiệp đạt được vị thế dẫn đầu trong ngành. Thương hiệu càng nổi tiếng thì khả năng tăng thị phần của nó trên thị trường càng cao. Nhờ đó, doanh nghiệp có thể điền chi tiết thị trường, định giá cao hơn, chi phối, làm cho các đối thủ phải nản lòng khi muốn chia thị phần với họ.
3.2.2 Chiến lược Marketing
Làm tốt công tác nghiên cứu thị trường tạo đội ngũ tiếp thị, phát triển mạng lưới tiếp thị nhanh nhạy, rộng khắp luôn có kế hoạch mở rộng thị trường. Phát triển mạng lưới tiêu thụ, thường xuyên đưa ra các hình thức khuyến mãi phù hợp với từng lúc, từng nơi, cải tiến phương thức phục vụ khách hàng. Nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống phân phối, kể cả dịch vụ trước và sau khi bán hàng phù hợp với đặc điểm văn hoá tiêu dùng ở những thị trường tiêu thụ khác, cần nắm bắt và phản ứng nhanh trước các thay đổi của đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
3.2.3 Chiến lược đổi mới công nghệ
Xây dựng kế hoạch để từng bước đổi mới dây chuyền công nghệ, thay thế dần công nghệ cũ bằng công nghệ mới để tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng hàng hoá; trước tiên lựa chọn các khâu quan trọng trong dây chuyền sản xuất có ảnh hưởng đến chất lượng và giá thành sản phẩm để tiến hành hiện đại hoá trước; tiếp theo là ứng dụng công nghệ thông tin vào tìm kiếm thị trường, quảng bá thương hiệu và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường trong nước và nước ngoài.
3.2.4 Chiến lược phát triển nguồn nhân lực
Có thể bạn quan tâm!
- Năng Lực Cạnh Tranh Của Doanh Nghiệp
- Những Mặt Hạn Chế Về Năng Lực Cạnh Tranh Của Việt Nam:
- Định Hướng Quan Điểm Đối Với Việc Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Quốc Gia:
- Bảo vệ quyền lợi lao động nữ trong Pháp luật lao động Việt Nam - 15
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
Trong quá trình toàn cầu hoá, ngoài những lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý là những yếu tố về lợi thế so sánh do thiên nhiên ban tặng, chúng ta còn có lợi thế khác đó là lợi thế về lao động rẻ. Trong thập kỷ 90 có thể thấy rằng, sự dồi dào lao động tương đối giản đơn, giá rẻ ở nước ta đã đem lại sự phát triển chung của các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất cần nhiều lao động. Tuy vậy, lao động rẻ của chúng ta đang bị cạnh tranh gay gắt từ Trung Quốc và lợi thế về lao động rẻ nhưng tương đối giản đơn của Việt Nam trong thập kỷ tới sẽ giảm dần và các doanh nghiệp cũng phải đề phòng nguy cơ rơi vào cái bẫy của lao động rẻ. Mặt khác, trong những năm tới, lao động có kĩ thuật trình độ cao mới là loại lao động mà nền kinh tế tri thức cần. Do vậy, đông và rẻ không còn là lợi thế cho lực lượng lao động của ta nữa. Vì vậy, muốn nâng cao khả năng cạnh tranh cần tiến hành nâng cao trình độ năng lực kinh doanh, kinh nghiệm kinh doanh và điều hành, quản lý doanh nghiệp, nhất là nâng cao trình độ và kinh nghiệm kinh doanh và điều hành của giám đốc, trình độ tay nghề của người lao động, trình độ và kiến thức về tiếp thị, tiếp thu khoa học kĩ thuật, trình độ công nghệ, thông tin, chú trọng đến những sáng kiến cải tiến của người lao động ở các khâu khác nhau trong hoạt động của doanh nghiệp. Cần có các hình thức khuyến khích lao động làm việc tốt hơn.
3.2.5 Chiến lược liên kết mạng lưới trong quản lý, hợp tác sản xuất, tiêu thụ
Hiện nay các tập đoàn kinh tế lớn, các công ty xuyên quốc gia (TNCs) có thế lực rất lớn trên thị trường ở các quốc gia, đặc biệt là thế lực trong cạnh tranh. Lý do là vì các tập đoàn và các TNCs có sức mạnh về vốn, khoa học công nghệ, kỹ năng quản lý. Đối với Việt Nam để có những tập đoàn kinh tế lớn, ngoài vai trò quyết định của nhà nước ở tầm vĩ mô, các doanh nghiệp Việt Nam cũng nên tiến tới hình thành các tập đoàn kinh tế, các công ty xuyên quốc gia, bằng cách: hợp tác đầu tư với các tập đoàn kinh tế, công ty đa quốc gia của nước ngoài, hình thành công ty con của các tập đoàn. Từ đó, tiến hành các liên kết kinh tế dọc, ngang với các doanh nghiệp trong nước, hình thành tập đoàn kinh tế lớn, công ty xuyên quốc gia ở Việt Nam. Hoặc là, dưới sự hỗ trợ điều hành của nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước chủ động đứng ra làm nòng cốt tiến hành sáp nhập, hợp nhất với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, hình thành các tập đoàn kinh tế tổng hợp, đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Nếu thực hiện được những chiến lược trên đây thì đó là hệ quả rất lôgic của một hệ thống doanh nghiệp hướng về trường kỳ và chắc chắn sẽ đủ năng lực cạnh tranh khi Việt Nam ra nhập WTO. Trường kì chính là sự lựa chọn rất chiến lược của các doanh nghiệp Việt Nam: không thể thắng trong cuộc chạy nước rút, họ quyết định giành chiến thắng trong cuộc chạy maratôn.
3.3. Nhóm giải pháp của Nhà nước:
3.3.1. Về môi trường thể chế:
Để hoàn thiện môi trường pháp lý, trước mắt cần đẩy mạnh cải cách hành chính, tổ chức định kỳ các diễn đàn trao đổi giữa và cơ quan chức năng
cũng như chính quyền địa phương, xây dựng một chiến lược phát triển pháp luật, thành lập Uỷ ban quốc gia về cải cách thể chế.
Về lâu dài, cần hình thành và hoàn thiện các thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo duy trì phát triển kinh tế và tránh các đột biến bất lợi tiến tới hình thành khung pháp lý chung cho các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau; đổi mới một cách cơ bản quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật; đề nghị Quốc hội đổi mới cách tổ chức thảo luận và thông qua dự án luật theo phiên họp chuyên ngành; khuyến khích thành lập các tổ chức tự quản của doanh nghiệp và nhân dân như các hiệp hội kinh doanh và hiệp hội tiêu dùng; hoàn thiện pháp luật phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế; tham gia các hiệp định quốc tế và trọng tài; đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền pháp luật, phát triển các tổ chức dịch vụ pháp lý; và tăng cường hiệu lực của các cơ quan thực thi, bảo vệ pháp luật.
Rà soát văn bản pháp luật, xoá bỏ những quy định hạn chế cạnh tranh, gây cản trở cho sản xuất và kinh doanh, phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế và không phù hợp với kinh tế thị trường và cam kết hội nhập; xây dựng khuôn khổ pháp luật cạnh tranh, trước hết là Luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền, Luật về các ngành độc quyền tự nhiên, Pháp lệnh chống bán phá giá, trợ cấp, quy tắc xuất xứ và các văn bản pháp lý liên quan đến kiểm dịch động thực vật...
Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tập trung đơn giản hoá các thủ tục hoàn thuế, hải quan, đất đai, xây dựng, hộ khẩu, công chứng phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Xây dựng quy chế công bố thông tin của các cơ quan nhà nước về quy hoạch, về chính sách có liên quan, quy chế trả lời ý kiến công dân và doanh nghiệp. Thể chế hoá việc tổ chức đối thoại giữa doanh nghiệp với các cơ quan chức năng và chính quyền địa phương; quy định trách nhiệm
thực hiện các cam kết và thời hạn giải quyết. Khẩn trương thực hiện chương trình sử dụng công nghệ thông tin trong hệ thống quản lý nhà nước, từng bước xây dựng “chính phủ điện tử ”.
Tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, phân cấp cho địa phương, cơ sở thông qua điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm pháp lý giữa cơ quan trung ương và địa phương. Hình thành nhóm tư vấn chính sách cho Thủ tướng Chính phủ và các Bộ trưởng bao gồm các nhà khoa học, đại diện doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Mở rộng khả năng giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và toà án. Tăng cường năng lực và hiệu lực của các cơ quan trọng tài, toà án, đặc biệt là toà hành chính.
Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức, viên chức về chuyên môn nghiệp vụ, về kiến thức hội nhập quốc tế. Xây dựng chế độ công vụ, tăng cường chế độ trách nhiệm bằng các chế tài, trước hết là đối với lĩnh vực tài chính công.
3.3.2. Về môi trường đầu tư:
Thực hiện Nghị quyết 09-2001 / NQ-CP về “Tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư nước ngoài thời kỳ 2001-2005”. Mở rộng hình thức thu hút vốn đầu tư nước ngoài, trước hết là bỏ các hạn chế về hình thức đầu tư đối với dự án trong ngành sản xuất chế tạo hoặc có tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm cao, những hạn chế về vốn góp và huy động vốn. Cụ thể hoá và thu hẹp các lĩnh vực không cấp giấy phép đầu tư và điều kiện cấp phép đối với những lĩnh vực đầu tư có điều kiện. Thay thế các yêu cầu xuất khẩu, nội địa hoá, phát triển nguồn nguyên liệu trong nước bằng những công cụ và biện pháp thích hợp.
Mục tiêu năm 2006 của Việt Nam đề ra là thu hút vốn đầu tư nước ngoài khoảng 5,5 tỷ USD. Để đạt được mục tiêu trên và để tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả hơn nữa nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đòi hỏi phải tiếp tục cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư, làm cho Việt Nam thực sự là một trong những địa bàn đầu tư hấp dẫn hàng đầu trong khu vực Đông Nam Á.
* Về môi trường pháp lý, cần soạn thảo các văn bản hướng dẫn Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp và ban hành sớm các văn bản này để các nhà đầu tư cũng như các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và địa phương có thời gian tìm hiểu và chuẩn bị cho việc áp dụng. Trong quá trình này, cần đặc biệt chú trọng việc đảm bảo cho gần 6.000 dự án được cấp Giấy phép chuyển sang hoạt động theo các luật mới một cách thuận lợi. Đồng thời tiến hành rà soát các chính sách liên quan để kịp thời chỉnh sửa, hoàn chỉnh, đảm bảo sự thống nhất của cả hệ thống luật pháp chính sách về đầu tư; khẩn trương rà soát các cam kết quốc tế về mở cửa thị trưởng để thực hiện theo đúng lộ trình.
* Về thủ tục hành chính, tập trung sức hoàn thiện cơ chế ”một cửa” ở các cơ quan cấp phép và quản lý đầu tư, tăng cường phân cấp mạnh hơn nữa quản lý đầu tư đi đôi với tăng cường cơ chế phối hợp, giám sát và kiểm tra; giải quyết kịp thời các thủ tục về đất đai, xuất nhập khẩu, hải quan… Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý ngoại hối, từng bước nới lỏng kiểm soát giao dịch tài khoản vãng lai, nâng cao khả năng chuyển đổi đồng tiền; kiểm soát có chọn lọc giao dịch tài khoản vốn. Mở rộng danh mục đảm bảo cung ứng ngoại tệ, sửa đổi thủ tục chuyển đổi ngoại tệ phù hợp với điều kiện mới và thông lệ quốc tế. Nghiên cứu bổ sung hoàn chỉnh chính sách đối với đầu tư ra nước ngoài về thủ tục cấp phép, chuyển vốn, nhân sự, chế độ thuế và báo cáo.
Điều chỉnh đầu tư nhà nước, sửa đổi và bổ sung quy hoạch, chiến lược phát triển ngành, địa phương. Đổi mới quy trình quyết định đầu tư và thẩm định dự án. Tách giám định đầu tư khỏi giám sát xây dựng, áp dụng kiểm toán bắt buộc đối với những đơn vị sử dụng ngân sách.
Giảm đầu tư từ ngân sách nhà nước vào kinh doanh, trước hết là những ngành đã dư thừa công suất. Chưa đầu tư vào sản phẩm không có năng lực cạnh tranh, không có thị trường tiêu thụ, năng lực sản xuất của các khu vực kinh tế khác đã đủ lớn.
Về kết cấu hạ tầng, tiếp tục huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước, trong đó có việc ban hành quy chế khuyến khích tư nhân đầu tư nâng cấp các công trình giao thông, cảng biển, dịch vụ viễn thông, cung cấp điện nước, phấn đấu không để xảy ra tình trạng thiếu điện cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tập trung đầu tư xây dựng hạ tầng kinh tế gồm viễn thông, điện, giao thông; hạ tầng thương mại. Tăng đầu tư phát triển nông nghiệp - nông thôn, tập trung cho nhập khẩu và sản xuất giống mới, thuỷ lợi, công nghệ bảo quản chế biến sau thu hoạch, bảo vệ môi trường ở làng nghề.
Phát triển dịch vụ tài chính, ngân hàng, tăng cường cạnh tranh trên thị trường tài chính, đa dạng hoá các hình thức huy động vốn. Tăng nguồn vốn huy động và cho vay trung và dài hạn. Điều chỉnh đối tượng và mục đích cho vay, ưu tiên cho nghiên cứu và ứng dụng công nghệ mới, đổi mới thiết bị và xuất khẩu. Chấm dứt tín dụng ưu đãi theo loại hình sở hữu của doanh nghiệp. Tiếp tục giải quyết nợ tồn đọng lâu dài trong hệ thống tín dụng. Tiếp tục chương trình cơ cấu lại ngân hàng thương mại, nâng cao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các ngân hàng thương mại quốc doanh.
Để phát huy lợi thế về nguồn nhân lực, cần tăng cường mạnh mẽ công tác đào tạo, nhất là đào tạo nghề với sự tham gia của các tổ chức trong nước và nước ngoài nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu lao động kỹ thuật cao của nhà đầu tư.
Thành lập và đào tạo năng lực đàm phán cho đội ngũ chuyên trách về đàm phán thuộc Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế. Ký kết và ký lại các hiệp định thương mại song phương theo yêu cầu mới. Ký kết các hiệp định hỗ trợ thương mại như hiệp định về vận tải, thanh toán, công nhận kết quả kiểm tra vệ sinh, kiểm dịch, tiêu chuẩn và chất lượng hàng hoá. Hỗ trợ doanh nghiệp giải quyết những vấn đề mới trong hội nhập như tranh chấp thương mại, đáp ứng yêu cầu chất lượng, vệ sinh, an toàn thực phẩm, các tiêu chuẩn kỹ thuật và bảo vệ môi trường, tiêu chuẩn lao động.
Về xúc tiến đầu tư, trong năm tới cần triển khai xây dựng các đầu mối xúc tiến đầu tư ở một số địa bàn trọng điểm, đổi mới phương thức xúc tiến đầu tư, nhất là chuyển mạnh sang hình thức vận động đầu tư theo dự án và đối tác trọng điểm.
Kinh nghiệm cũng cho thấy cần duy trì cơ chế đối thoại thường xuyên giữa lãnh đạo Chính phủ, các Bộ, ngành với các nhà đầu tư nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các khó khăn, vướng mắc của các dự án đang hoạt động, đảm bảo các dự án hoạt động có hiệu quả, đúng tiến độ.
Tăng cường tổ chức hoạt động xúc tiến và cung cấp dịch vụ đầu tư. Xây dựng chương trình xúc tiến đầu tư theo những ngành có ưu thế của nước đầu tư và các công ty xuyên quốc gia. Thành lập quỹ xúc tiến đầu tư ở các cơ quan cấp phép đầu tư. Mở văn phòng xúc tiến đầu tư ở một số nước trọng điểm. Ký kết các hiệp định bảo hộ đầu tư và tránh đánh thuế hai lần.