niên nhận thức rõ ràng hành vi phạm tội của mình là nguy hiểm cho xã hội, nhưng vẫn thực hiện: Nguyên nhân và điều kiện phạm tội là tác động của chính bản thân người thực hiện hành vi phạm tội chứ không phải là do nguyên nhân, điều kiện khách quan.
- Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của người chưa thành niên, tuỳ vào hậu quả thiệt hại hoặc nguy cơ gây thiệt hại cụ thể và từng lứa tuổi mà Bộ luật hình sự quy định phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ để giáo dục, cải tạo họ trở thành công dân có ích cho xã hội và để răn đe, phòng ngừa tội phạm nói chung.
- Nhân thân của người chưa thành niên phạm tội không rõ ràng hoặc đã có tiền án, tiền sự.
- Căn cứ vào yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội khi đã có đủ căn cứ trên. Ngoài việc cải tạo, giáo dục họ còn nhằm mục đích răn đe những người khác không thực hiện hành vi phạm tội, nếu thực hiện sẽ bị xử lý hình sự.
Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp người chưa thành niên phạm tội đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự đều bị áp dụng hình phạt. Việc áp dụng hình phạt đối với họ chỉ được thực hiện khi các biện pháp giáo dục khác không có tác dụng để cải tạo, giáo dục họ trở thành công dân có ích cho xã hội và việc cách ly hoặc hạn chế quyền của họ là cần thiết cho yêu cầu của công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm mà thay vào đó là các biện pháp khác như giáo dục tại xã, phường, đưa vào trường giáo dưỡng.
* Nguyên tắc 4:
Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội. Không áp dụng hình phạt tiền dối với người chưa thành niên phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Khi áp dụng hình phạt tù có thời hạn
đối với người chưa thành niên, Toà án phải cho người chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án tương ứng áp dụng cho người đã thành niên phạm tội.
Có thể bạn quan tâm!
- Khái Niệm Bảo Vệ Quyền Của Người Chưa Thành Niên Trong Tư Pháp Hình Sự.
- Pháp Luật Việt Nam Về Bảo Vệ Quyền Của Người Chưa Thành Niên Trong Tư Pháp Hình Sự Từ Năm 1945 Đến 1985.
- Bảo Vệ Quyền Của Người Chưa Thành Niên Với Tư Cách Là Người Bị Tạm Giữ, Bị Can, Bị Cáo, Người Bị Kết Án.
- Quy Định Hình Phạt Tù Có Thời Hạn Đối Với Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Trong Bộ Luật Hình Sự Năm 1999
- Đối Tượng Chứng Minh Trong Vụ Án Có Người Bị Tạm Giữ, Bị Can, Bị Cáo Là Người Chưa Thành Niên.
- Cơ Quan Tiến Hành Tố Tụng Và Người Tiến Hành Tố Tụng Trong Những Vụ Án Có Người Chưa Thành Niên Phạm Tội.
Xem toàn bộ 166 trang tài liệu này.
Mục đích của việc áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên là không làm ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh và bảo đảm cho sự phát triển lành mạnh của họ tức là nhằm giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội sau này. Vì vậy, Bộ luật hình sự không áp dụng hình phạt tù chung thân, hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội vì hai loại hình phạt này mang tính trừng trị và phòng ngừa chứ không mang tính giáo dục.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội. Do đặc điểm tâm lý của lứa tuổi này, việc áp dụng hình phạt bổ sung đối với họ không những không tăng cường được hiệu lực, hiệu quả của hình phạt chính mà còn trở thành gánh nặng tâm lý, ảnh hưởng xấu đến quá trình phát triển lành mạnh của họ. Do đó, khoản 5 Điều 69 đã quy định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội.
Việc không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội là cần thiết vì lứa tuổi này tại Việt Nam, các em còn đang đi học, có thể chưa có thu nhập riêng. Việc áp dụng hình phạt tiền đối với họ không những không đạt được mục đích của hình phạt mà còn trở thành gánh nặng tâm lý cho gia đình. Nhiều gia đình thường xuyên đay nghiến, chửi mắng con cái hoặc gia đình lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế sẽ có ảnh hưởng xấu đối với quá trình tu dưỡng của các em tại gia đình.
Trong trường hợp cần thiết phải áp dụng hình phạt thì mức án mà người chưa thành niên phạm tội phải chịu phải nhẹ hơn mức án mà người đã thành niên phạm tội phải chịu. Nguyên tắc này phù hợp với đặc điểm tâm lý và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm là người chưa thành niên.
* Nguyên tắc 5.
Án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi không được tính để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm.
Mặc dù án tích có tác dụng răn đe, nhắc nhở người bị kết án sau khi chấp hành hình phạt xong không được phạm tội mới nhưng đối với người chưa thành niên ở độ tuổi dưới 16 thì việc ghi nhận đó tạo nên một tâm lý nặng nề, mặc cảm về tội lỗi ảnh hưỏng không tốt đến quá trình phấn đấu, tu dưỡng của họ. Do vậy, khoản 6 Điều 69 Bộ luật hình sự quy định án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi thì không được tính làm căn cứ để xác định là tái phạm và tái phạm nguy hiểm.
Qua nghiên cứu những quy định đặc thù về trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên tại Chương X Bộ luật hình sự năm 1999 có thể thấy những điểm mới trong bảo vệ quyền của người chưa thành niên so với Bộ luật hình sự năm 1985 như sau:
Một là, Bộ luật hình sự năm 1999 đã thu hẹp diện người chưa thành niên theo hình thức phân loại tội phạm mới, vì thế đã thu hẹp diện xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội.
Hai là, giảm nhẹ mức hình phạt tù. Một số nước trên thế giới đã bỏ hình phạt tử hình, tù chung thân nhưng ở Việt Nam, do cuộc đấu tranh chống tội phạm diễn biến còn nhiều phức tạp nên tạm thời vẫn duy trì hai loại hình phạt này. Tuy vậy, đối với người chưa thành niên phạm tội hình phạt này không được đưa ra áp dụng mà chỉ áp dụng các loại hình phạt là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và tù có thời hạn. Nếu hành vi gây nguy hiểm cho xã hội do người chưa thành niên thực hiện mà điều luật quy định mức hình phạt là chung thân hoặc tử hình thì Toà án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với họ. Bộ luật hình sự năm 1985 quy định mức cao nhất đối với hình phạt tù có thời hạn lên tới hai mươi năm thì trong Bộ luật hình sự năm 1999 quy định mức hình phạt tù có thời hạn tối đa là mười tám năm đối
với người chưa thành niên từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi, mức hình phạt tối đa trong Bộ luật hình sự 1985 là mười hai năm thì đến Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ quy định là mười năm.
Ba là, Bộ luật hình sự năm 1999 bổ sung hình phạt tiền đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội. Xuất phát từ đặc điểm của nền kinh tế thị trường nhiều người tuy nhỏ tuổi nhưng đã có thể làm kinh tế hoặc do thừa kế mà một số người đã có tài sản riêng. Mặt khác, thực tiễn cho thấy một số tội có động cơ từ lợi ích kinh tế, lấy kinh tế làm phương tiện phạm tội nên chỉ cần áp dụng hình phạt tiền cũng đủ để trừng trị và giáo dục người phạm tội. Việc xử phạt tiền cũng đủ để trừng trị và giáo dục người phạm tội. Việc xử phạt tiền còn tạo điều kiện cho các bậc phụ huynh có cơ hội giáo dục con em mình tốt hơn. Điều 72 Bộ luật hình sự quy định: “Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người chưa thành niên phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu người đó có thu nhập và có tài sản riêng. Mức phạt tiền đối với họ không quá một phần hai mức phạt tiền mà điều luật quy định”. Như vậy, hình phạt tiền áp dụng đối với người chưa thành niên cũng hạn chế và có điều kiện.
Bốn là, mức giảm thời hạn chấp hành hình phạt được quy định cụ thể hơn. Nếu Bộ luật hình sự năm 1985 quy định còn chung chung, như: “Người chưa thành niên bị kết án nếu cải tạo tốt thì được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt vào thời gian sớm hơn hoặc với mức cao hơn so với thời gian và mức quy định tại Điều 49” và “thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là 1/3 thời hạn đối với hnfh phạt từ 20 năm trở xuống, 10 năm đối với tù chung thân”. Bộ luật hình sự 1999 đã có quy định cụ thể hơn “Riêng đối với hình phạt tù, mỗi lần có thể giảm từ 4 đến 5 năm nhưng phải đảm bảo đã chấp hành ít nhất là 2/5 mức hình phạt đã tuyên”. Người chưa
thành niên bị phạt tiền nhưng lâm vào hoàn cảnh khó khăn kéo dài do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn hoặc ốm đau, hay lập công lớn thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Toà án có thể quyết định giảm hoặc miễn chấp hành hình phạt còn lại.
Năm là, có sự thay đổi biện pháp tư pháp đối với người chưa thành
niên.
Biện pháp tư pháp buộc phải chịu thử thách trong Bộ luật hình sự năm
1985 được thay thế bằng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn theo Bộ luật hình sự năm 1999. Điều này nhằm phát huy vai trò của chính quyền các đoàn thể ở cơ sở và kết hợp với vai trò của gia đình trong việc giáo dục các em có hành vi phạm tội. Thời gian đưa vào trường giáo dưỡng cũng giảm xuống. Nếu Bộ luật hình sự năm 1985 quy định thời hạn đưa vào trường giáo dưỡng từ 1 đến 3 năm thì Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ quy định từ 1 đến 2 năm. Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định cụ thể nhưng đến Bộ luật hình sự năm 1999 quy định là: “Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên không quá 1/2 thời hạn mà điều luật quy định”.
Để thực hiện chính sách hình sự mới này, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 32/1999/NQ-QH10 ngày 04/01/2000 về việc thi hành Bộ luật hình sự. Ủy ban thường vụ Quốc hội ra nghị quyết số 229/2000/NQ-UBTVQH10 ngày 28/01/2000 về việc thi hành Nghị quyết số 32 của Quốc Hội. Tại điểm d mục 3 Nghị quyết 32 quy định: Kể từ ngày Bộ luật hình sự được công bố (04/01/2000) không xử lý về hình sự đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi về tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt. Trong trường hợp người đó đã bị kết án và đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành hình phạt hoặc đang được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt thì họ được miễn chấp
hành hình phạt còn lại. Nếu người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được miễn thi hành án thì được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt.
Nghị quyết số 229 giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng và một số cơ quan nhà nước khác rà soát, đối chiếu những đối tượng là người chưa thành niên được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự và miễn chấp hành hình phạt nói trong Nghị quyết số 32 của Quốc hội để thực hiện kể từ ngày Bộ luật hình sự mới được công bố.
Để hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho các biện pháp giáo dục cải tạo đạt được kết quả và phù hợp với tình hình thực tế của cuộc đấu tranh phòng ngừa tội phạm ở người chưa thành niên, luật tố tụng hình sự quy định người chưa thành niên phạm tội phải được giam giữ riêng. Xuất phát từ mục đích nhân đạo, Luật hình sự Việt Nam còn quy định không áp dụng hình phạt tù chung thân và tử hình đối với họ. Người chưa thành niên chỉ bị áp dụng hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ và tù có thời hạn.
Hậu quả pháp lý liên quan đến việc áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo quy định của Bộ luật hình sự là chỉ đưa những người chưa thành niên phạm tội ra xét xử khi thấy cần thiết. Điều đáng lưu ý là phạt tù có thời hạn đã tuyên đối với người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm (khoản 6 Điều 69 BLHS). Như vậy, hậu quả pháp lý lien quan đến việc áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên nhẹ hơn so với người đã thành niên. Mặt khác, sau khi bị kết án nếu cải tạo tốt họ sẽ được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt.
Tóm lại, những quy định tại Chương X Bộ luật hình sự 1999 đã thể hiện rõ nét chính sách hình sự nhân đạo của Nhà nước ta. Đó còn là kết quả của sự tìm tòi, nghiên cứu, sự tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm đấu tranh phòng chống tội phạm của khoa học luật hình sự các nước. ở đây, có sự phù
hợp cơ bản giữa chính sách hình sự của nước ta và pháp luật hình sự quốc tế. Mặt khác, nó thể hiện lòng tin vào khả năng cải tạo, giáo dục người chưa thành niên trong chính sách hình sự của nhà nước ta. Tư tưởng thống nhất xuyên suốt các nguyên tắc xử lý nói trên là lấy giáo dục, thuyết phục làm mục đích, trung tâm cho mọi hoạt động tố tụng của cơ quan tư pháp trong những vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Nó có tác dụng lấy giáo dục, động viên người chưa thành niên bị kết án tích cực cải tạo, sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Các quy định này còn là công cụ hỗ trợ góp phần đấu tranh có hiệu quả tình trạng phạm tội của người chưa thành niên hiện nay.
2.1.1.2. Bảo vệ quyền của người chưa thành niên phạm tội thông qua chế định hình phạt
Quy định về hình phạt
Điều 26 Bộ luật hình sự quy định: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong luật hình sự do Toà án nhân danh Nhà nước áp dụng đối với người đã thực hiện tội phạm, tước bỏ hoặc hạn chế những quyền và lợi ích nhất định của người bị kết án nhằm trừng trị, cải tạo, giáo dục người phạm tội ngăn ngừa tội phạm”.
Mục đích của hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội bên cạnh việc trừng trị còn nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, trở thành công dân có ích cho xã hội. Trong mọi trường hợp, việc điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành niên các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội cho xã hội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.
Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng gây hại không
lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận trách nhiệm giám sát, giáo dục.
Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong những trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.
Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội thì Toà án áp dụng một trong những biện pháp tư pháp được quy định tại Điều 70 Bộ luật hình sự.
Nguyên tắc của việc áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội.
- Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình người chưa thành niên phạm tội. Khi hình phạt tù có thời hạn, Toà án cho người chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội.
- Không áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi.
- Không áp dụng các hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội.
- Án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội chưa đủ 16 tuổi thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
Việc áp dụng hình phạt với người chưa thành niên, xét cho cùng thể hiện nguyên tắc nhân đạo, nhân văn cũng như tôn trọng các quyền con người, đặc biệt chú trọng bảo vệ quyền của ngựời chưa thành niên xuất phát từ những đặc điểm riêng của đối tượng này.
Điều 71 Bộ luật hình sự quy định các hình phạt mà Toà án áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội là: