TRIPs). Hiện nay, Hiệp định TRIPs được coi là xương sống của các quy định liên quan đến bảo hộ quyền SHTT trên bình diện quốc tế.
1.3.2.2. Nội dung cơ bản của Hiệp định TRIPs
Các quy định mới điều chỉnh các vấn đề liên quan đến thương mại của quyền SHTT thông qua Hiệp định TRIPs đã trở thành một phương tiện giúp củng cố trật tự, cũng như giải quyết tranh chấp một cách có hệ thống hơn trên phạm vi toàn cầu. Hiệp định nêu ra các nguyên tắc và ấn định các mức độ bảo hộ tối thiểu mà mỗi quốc gia thành viên phải bảo đảm cho quyền SHTT của các quốc gia thành viên khác. Trên cơ sở đó, Hiệp định tạo ra sự cân bằng giữa lợi ích lâu dài và chi phí ngắn hạn đối với xã hội. Cũng như trong các hiệp định khác của WTO, Hiệp định TRIPs dựa trên một số nguyên tắc cơ bản, đó là nguyên tắc đối xử quốc gia, đối xử tối huệ quốc và bảo hộ cân bằng8. Các nguyên tắc này không chỉ áp dụng đối với các tiêu chuẩn về nội dung bảo hộ mà còn áp dụng cả đối với
những vấn đề liên quan đến khả năng đạt được, xác lập, phạm vi, duy trì và thực thi quyền SHTT.
Hiệp định TRIPs đề cập chi tiết đến các quyền SHTT khác nhau và cách thức bảo hộ. Các thành viên của WTO đều bắt buộc phải xây dựng hệ thống bảo hộ quyền SHTT quốc gia nhằm đảm bảo đáp ứng các tiêu chuẩn tối thiểu được nêu trong Hiệp định theo hai chuẩn mực cơ bản về bảo hộ, đó là tính đầy đủ và tính hiệu quả của hệ thống pháp luật về quyền SHTT hiện hành. Nền tảng của Hiệp định là những nghĩa vụ được nêu trong các hiệp định quốc tế ký kết trong khuôn
8- Nguyên tắc đối xử quốc gia. Theo điều 3 của Hiệp định, mỗi thành viên của WTO phải dành cho công dân của các thành viên khác đối xử không kém thuận lợi hơn công dân của nước mình trong lĩnh vực bảo hộ quyền SHTT.
- Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc. Điều 4 của Hiệp định quy định bất kỳ thuận lợi, ưu tiên, đặc quyền hoặc miễn trừ nào mà một thành viên đã dành cho công dân của một thành viên khác trong lĩnh vực bảo hộ quyền SHTT thì cũng đều phải được danh ngay lập tức và vô điều kiện cho công dân của tất cả các thành viên còn lại.
-Nguyên tắc bảo hộ cân bằng. Bảo hộ quyền SHTT phải góp phần cải tiến kỹ thuật và chuyển giao công nghệ, đem lại lợi ích cho người sản xuất cũng như người tiêu dùng, góp phần gia tăng sự thịnh vượng kinh tế - xã hội.
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam - 2
- Quyền Shtt Trong Nền Kinh Tế Thị Trường Và Hội Nhập Quốc Tế
- Bảo Hộ Quyền Shtt Theo Các Công Ước Quốc Tế Và Hiệp Định Trips
- Chủ Trương, Chính Sách Và Pháp Luật Của Đảng Và Nhà Nước Về Bảo Hộ Quyền Shtt
- Chính Sách, Pháp Luật Liên Quan Đến Thực Thi Quyền Shtt
- Đăng Ký Kiểu Dáng Công Nghiệp Giai Đoạn 1995-2005
Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.
khổ WIPO, như Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp, Công ước Bern về bảo hộ các tác phẩm văn học nghệ thuật. Ngoài ra, Hiệp định TRIPs còn bổ sung thêm một số lượng lớn các quy định mới. Cụ thể, các lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định TRIPs bao gồm: quyền tác giả và quyền liên quan, nhãn hiệu hàng hóa và thương hiệu, chỉ dẫn địa lý, bản vẽ và kiểu dáng công nghiệp, bằng sáng chế, sơ đồ bố trí mạch tích hợp, và bảo vệ thông tin bí mật.
(1) Tiêu chuẩn bảo hộ
- Quyền tác giả: Điều 9.1 Hiệp định TRIPs quy định các thành viên WTO phải tuân thủ Công ước Bern từ Điều 1 đến Điều 21 và Phụ lục kèm theo. Quyền tác giả được bảo hộ cho đến 50 năm sau khi tác giả qua đời. Hiệp định TRIPs quy định các chương trình máy tính và cơ sở dữ liệu cũng được bảo vệ như các tác phẩm văn học theo đúng Công ước Bern.
Về các quyền liên quan (quyền SHTT của người biểu diễn, người sản xuất chương trình thu thanh và tổ chức phát thanh truyền hình), Hiệp định TRIPs quy định người biểu diễn có quyền ngăn chặn việc thu, tái bản, phát trên phương tiện vô tuyến chương trình biểu diễn của mình mà không xin phép. Người sản xuất chương trình thu thanh có quyền cho phép hoặc cấm tái bản trực tiếp hoặc gián tiếp chương trình thu thanh của mình. Các tổ chức phát thanh truyền hình có quyền cấm thu, tái bản và phát lại trên phương tiện vô tuyến truyền hình của mình mà không xin phép. Thời hạn bảo hộ đối với người biểu diễn và người sản xuất chương trình thu thanh là ít nhất 50 năm, đối với các tổ chức phát thanh truyền hình là 20 năm tính từ ngày cuối của năm diễn ra chương trình biểu diễn hoặc chương trình được thu thanh, truyền hình.
- Nhãn hiệu hàng hóa: Điều 15 Hiệp định TRIPs quy định mọi dấu hiệu hoặc sự kết hợp các dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hóa, dịch vụ của một doanh nghiệp khác đều có thể được bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa. Chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hóa có độc quyền ngăn chặn tất cả các bên thứ ba sử dụng trái phép trong hoạt động thương mại các dấu
hiệu trùng hoặc tương tự đối với hàng hóa hoặc dịch vụ giống hệt hoặc tương tự với hàng hóa hoặc dịch vụ đã được đăng ký nhãn hiệu hàng hóa của mình nếu việc sử dụng này có nguy cơ gây nhầm lẫn. Điều 16 Hiệp định TRIPs quy định các thành viên WTO phải tuân thủ Điều 6bis Công ước Paris liên quan đến bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng. Các thành viên WTO có thể quy định các điều kiện cấp phép và chuyển nhượng nhãn hiệu hàng hóa, trong đó không được quy định việc cấp phép bắt buộc và chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hóa đã đăng ký có quyền chuyển nhượng nhãn hiệu hàng hóa đó có hoặc không kèm theo việc chuyển nhượng cơ sở kinh doanh mang nhãn hiệu hàng hóa đó. Thời hạn bảo hộ một nhãn hiệu hàng hóa là không dưới 7 năm và có thể được gia hạn với số lần không hạn chế.
- Chỉ dẫn địa lý: Điều 22 của Hiệp định quy định chỉ dẫn địa lý là những chỉ dẫn về hàng hóa bắt nguồn từ một nước hoặc khu vực hay địa phương thuộc nước đó, có chất lượng, uy tín hoặc đặc tính nhất định do xuất xứ địa lý quyết định. Các thành viên WTO phải quy định những biện pháp để các bên liên quan ngăn chặn việc mô tả gây nhầm lẫn cho công chúng về xuất xứ địa lý của hàng hóa hoặc tạo thành “hành vi cạnh tranh không lành mạnh” theo điều 10bis Công ước Paris.
- Bản vẽ và kiểu dáng công nghiệp: Điều 25 Hiệp định TRIPs quy định các thành viên WTO phải bảo hộ những kiểu dáng công nghiệp được sáng tạo một cách độc lập, có tính mới hoặc tính sáng tạo ít nhất trong vòng 10 năm. Chủ sở hữu các bản vẽ được bảo hộ có quyền ngăn cấm việc sản xuất, bán hoặc nhập khẩu các sản phẩm mang hoặc có chứa hình vẽ giống với hình vẽ đã được bảo hộ. Hiệp định TRIPs cho phép các thành viên tùy ý quyết định bảo hộ kiểu dáng hàng dệt bằng kiểu dáng công nghiệp hoặc bằng quyền tác giả.
- Bằng sáng chế: Hiệp định quy định các sáng chế có thể được bảo hộ thông qua bằng sáng chế trong vòng ít nhất 20 năm. Cả sản phẩm lẫn phương thức sản xuất đều được bảo hộ trong hầu hết các lĩnh vực công nghệ. Chính phủ
các nước có thể từ chối cấp bằng sáng chế nếu việc khai thác kinh doanh chúng bị cấm vì vi phạm trật tự công cộng hoặc đạo đức. Hiệp định đề ra các quyền tối thiểu dành cho người sở hữu bằng sáng chế. Tuy nhiên, Hiệp định cũng quy định một số ngoại lệ để đối phó với trường hợp người sở hữu bằng sáng chế lạm dụng quyền của mình, như không cung ứng sản phẩm cho thị trường. Trong trường hợp này, theo Hiệp định, chính phủ các nước, theo một số điều kiện nhất định, có thể cấp “giấy phép bắt buộc” cho phép các nhà sản xuất khác sản xuất sản phẩm này hoặc được phép sử dụng quy trình sản xuất đã được bảo hộ. Một số quy định mềm dẻo như vậy đặc biệt có ý nghĩa, nhất là đối với các nước đang phát triển và kém phát triển, trong việc tiếp cận những sản phẩm thiết yếu như thuốc chữa bệnh,…
- Thiết kế bố trí mạch tích hợp: Hiệp định TRIPs quy định việc bảo hộ sơ đồ bố trí mạch tích hợp trên cơ sở Hiệp định Washington về quyền SHTT trong lĩnh vực mạch tích hợp. Theo điều 36 của Hiệp định TRIPs, các hành vi nhập khẩu, bán hoặc phân phối nhằm mục đích thương mại một thiết kế bố trí mạch tích hợp được bảo hộ, một mạch tích hợp trong đó có thiết kế bố trí mạch tích hợp được bảo hộ mà không được phép của chủ sở hữu được coi là bất hợp pháp. Điều 37 của Hiệp định quy định, các thành viên sẽ không coi những hành vi liên quan đến sản phẩm vi phạm quyền sở hữu một thiết kế bố trí mạch tích hợp do người vi phạm vô ý gây ra là bất hợp pháp nhưng sẽ yêu cầu bồi thường cho chủ sở hữu thiết kế bố trí mạch tích hợp sau khi có thông báo vi phạm.
- Bảo hộ thông tin bí mật: Hiệp định TRIPs không yêu cầu các thành viên phải bảo hộ thông tin bí mật như một dạng sở hữu mà chỉ cho phép người có quyền kiểm soát thông tin đó khả năng ngăn chặn việc người khác làm tiết lộ, chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép thông tin này một cách trái với hành vi thương mại trung thực. Điều 39 của Hiệp định quy định các thành viên không được phép tiết lộ những dữ liệu mật được nộp cho các cơ quan chính phủ để xin phép lưu hành dược phẩm hoặc nông hóa phẩm, trừ trường hợp cần thiết nhằm bảo vệ
công chúng hoặc khi đã tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm đảm bảo các dữ liệu đó không bị tiết lộ nhằm mục tiêu thương mại không lành mạnh.
- Kiểm soát hành vi chống cạnh tranh trong hợp đồng chuyển giao quyền SHTT (Hợp đồng lixăng): Chủ sở hữu quyền SHTT có thể cho phép người khác sản xuất hay sao chép nhãn hiệu hàng hóa hoặc thương hiệu, tác phẩm, sáng chế, bản vẽ hoặc các mẫu mã được bảo hộ. Hiệp định TRIPs thừa nhận rằng trong số các điều kiện của hợp đồng chuyển giao, người chủ sở hữu có thể hạn chế cạnh tranh hoặc cản trở việc chuyển giao công nghệ. Hiệp định quy định chính phủ các nước, trong một số điều kiện nhất định, có quyền áp dụng các biện pháp nhằm ngăn ngừa hành vi phản cạnh tranh và lạm dụng quyền SHTT trong lĩnh vực nhượng bản quyền, và chính phủ các nước phải sẵn sàng tham khảo nhau nhằm chống lại các hành vi này.
(2) Thực thi quyền SHTT
Hiệp định TRIPs dành một phần thích đáng quy định việc chính phủ các nước phải làm thế nào để luật pháp nước họ bảo hộ được quyền SHTT và các trường hợp xâm phạm phải bị trừng trị đích đáng. Điều 41 quy định các thành viên WTO phải đảm bảo khả năng khiếu kiện có hiệu quả đối với mọi hành vi xâm phạm các loại quyền SHTT được đề cập trong Hiệp định, trong đó có những biện pháp chế tài khẩn cấp nhằm ngăn chặn các hành vi xâm phạm và những biện pháp chế tài nhằm ngăn chặn không để các hành vi xâm phạm tiếp diễn. Mặt khác, các thủ tục đó phải được áp dụng theo cách thức tránh tạo ra các hàng rào cản trở hoạt động thương mại hợp pháp. Theo Hiệp định, tòa án quốc gia cần phải có những biện pháp hữu hiệu, kịp thời để bảo vệ các chứng cứ của hành vi xâm phạm quyền SHTT. Sau khi đã xác định rõ chứng cứ xâm phạm, tòa án phải ra phán quyết yêu cầu người xâm phạm phải bồi thường thiệt hại cho người nắm giữ quyền SHTT. Hiệp định cũng kêu gọi các quốc gia cần lưu ý, nếu như trên thị trường xuất hiện hành vi ăn cắp bản quyền với quy mô lớn, theo khung hình phạt, người có hành động xâm phạm bản quyền sẽ bị khởi tố, có thể bị ngồi tù, hoặc
chịu các hình phạt khác. Các thủ tục và các biện pháp chế tài theo quy định của Hiệp định TRIPs gồm hai nhóm cơ bản: các biện pháp chế tài dân sự, hành chính và hình sự.
(3) Giải quyết tranh chấp
Quy định quan trọng nhất trong lĩnh vực này là tranh chấp phát sinh liên quan đến Hiệp định TRIPs sẽ được giải quyết theo quy định của Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO (DSB). Điều 63 yêu cầu các thành viên WTO phải công bố, hoặc ít nhất cho công chúng tiếp cận bằng ngôn ngữ quốc gia, tất cả các luật, quy định, quyết định xét xử cuối cùng và quyết định hành chính giải quyết vụ việc liên quan đến việc đăng ký, bảo hộ, thực thi, ngăn chặn lạm dụng quyền SHTT. Ngoài ra, các thành viên phải công bố mọi thỏa thuận đã ký với các thành viên WTO khác trong lĩnh vực quyền SHTT.
1.4. Những cơ hội và thách thức đối với các nước đang phát triển liên quan đến bảo hộ quyền SHTT trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Phản ánh xu thế ngày càng quan trọng của nền kinh tế tri thức, trong đó trí tuệ là nòng cốt, quyền SHTT đã trở thành một vấn đề nổi bật trong nội bộ nhiều quốc gia và đầu mối của nhiều tranh chấp quốc tế.
Ở cấp vi mô, vấn đề quyền SHTT được nói đến phần lớn là do đòi hỏi của các nhà sản xuất, nhất là các công ty đa quốc gia, do nhiều thúc bách. Thứ nhất, sở hữu trí tuệ là một lợi thế độc quyền ngày càng quan trọng, khi những lợi thế khác (như khả năng chia cắt thị trường) ngày càng yếu. Thứ hai, đa số nghiên cứu phát minh ngày càng tốn kém, mà sao chép, mô phỏng lại ngày càng dễ dàng. Vì những biện pháp bảo mật thông thường không còn công hiệu, nên khu vực tư nhân cần sự hậu thuẫn của nhà nước để bảo vệ SHTT. Thứ ba, hầu hết công ước quốc tế về quyền SHTT đã khá lâu đời, có nhu cầu cập nhật, bổ sung để ứng phó với những công nghệ, những hoạt động kinh tế mới.
Ở cấp vĩ mô, vai trò của quyền SHTT trong các tranh chấp quốc tế là do sự khác biệt quyền lợi giữa những nước đã phát triển, công nghệ cao và những nước
chưa phát triển, cần du nhập và mô phỏng công nghệ nước ngoài. Đối với đa số các nước phát triển thì quyền SHTT là cần thiết cho tiến bộ công nghệ, có lợi cho kinh doanh, tốt cho xã hội. Hơn nữa, theo họ quyền SHTT, nhất là bằng phát minh, cũng là tốt cho các nước kém phát triển: nó khuyến khích phát minh ở những nước ấy, thu hút đầu tư từ ngoài, du nhập công nghệ mới. Do đó, nói chung, lập trường của các nước phát triển là quyền SHTT phải rộng rãi và được thực sự bảo vệ.
Các quốc gia đang phát triển thì nhìn vấn đề có hơi khác. Mặc dù, nói chung, quyền SHTT sẽ khuyến khích phát minh, song trên thực tế thì hầu hết phát minh công nghệ đến từ các quốc gia tiên tiến, do đó sự thắt chặt quyền SHTT sẽ gây khó khăn cho các nước kém phát triển đang cần mô phỏng công nghệ hơn là phát minh công nghệ mới. Các nước này cũng lo ngại rằng chế độ quyền SHTT sẽ bị các nước giàu lạm dụng: đăng ký bản quyền những tác phẩm văn hóa cổ truyền, những gen đặc chủng, có thể thương mại hóa. Hơn nữa, thực thi chế độ quyền SHTT sẽ lấy nhiều nhân lực và ngân sách có thể dùng vào những hoạt động phát triển khác. Nói tóm lại, nhiều nước cho rằng quyền SHTT như được ấn định bởi các quốc gia tiên tiến sẽ gây khó khăn cho phát triển của họ, và chỉ có lợi cho nước giàu.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, đặc biệt là trong khuôn khổ WTO, việc chấp nhận các tiêu chuẩn cao của Hiệp định TRIPs tạo ra cả những cơ hội và thách thức đối với các nước đang phát triển. Cơ hội dễ nhận thấy nhất là những tác động tích cực đến lĩnh vực FDI và chuyển giao công nghệ. Cụ thể, Hiệp định TRIPs sẽ mang lại cảm giác an toàn cho các nhà đầu tư từ đó giúp làm tăng vốn đầu tư vào các nước đang phát triển, đẩy mạnh giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động. Đi kèm với FDI là quá trình chuyển giao công nghệ sẽ diễn ra mạnh mẽ hơn, các nước đang phát triển có nhiều khả năng hơn trong việc tiếp nhận các công nghệ hiện đại, công nghệ thích hợp của nước ngoài. Quá trình này cũng có tác động lan toả tích cực đến phát
triển nguồn nhân lực của các nước đang phát triển. Quá trình khai thác, vận hành những công nghệ hiện đại của nước ngoài là cơ hội tốt cho đội ngũ công nhân các nước đang phát triển học tập, làm chủ kiến thức mới, kỹ năng và tác phong làm việc công nghiệp. Ngoài ra, quyền SHTT được tôn trọng cũng sẽ giúp khuyến khích các hoạt động sáng tạo, nghiên cứu cải tiến sản xuất bản địa ở các nước đang phát triển, đặc biệt là trong các ngành phụ thuộc nhiều vào các sáng chế. Đối với phần lớn các nước đang phát triển, hoạt động bảo hộ quyền SHTT còn khá mới mẻ, những nỗ lực của các nước này nhằm thực hiện cam kết Hiệp định TRIPs sẽ giúp hoạt động này nhanh chóng trở nên quy củ và chuyên nghiệp hơn. Xét về lâu dài, việc thực hiện có hiệu quả và hiệu lực Hiệp định TRIPs sẽ mang lại nhiều cơ hội cho các nước đang phát triển đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hoá, đặc biệt là phát triển tri thức, tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ.
Cơ hội luôn đi kèm, đan xen với thách thức. Trong ngắn hạn, dường như các nước đang phát triển phải đối mặt với nhiều thách thức hơn so với những cơ hội mà họ có thể tận dụng. Những khó khăn, thách thức này được thể hiện ở một số khía cạnh chủ yếu sau đây:
- Cơ chế bảo hộ quyền SHTT chặt chẽ tạo ra sự bất bình đẳng giữa các nền kinh tế tiên tiến với các nền kinh tế nhỏ, lạc hậu và giữa các doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ. Từ hoàn cảnh kinh tế, các nước đang phát triển đều có chung mối lo ngại nhất định khi cân nhắc việc bảo hộ quyền SHTT. Mối lo ngại đầu tiên của các nước đang phát triển là các nhà phát triển công nghệ và chủ sở hữu công nghệ thường là các nước phát triển tiên tiến. Phần lớn các bằng sáng chế công nghệ được cấp ở các nước đang phát triển đều nằm trong tay người nước ngoài. Điều này cho thấy, các chủ thể của nước đang phát triển không có nhiều cơ hội sử dụng cơ chế bảo hộ quyền SHTT của các nước khác, trong khi hệ thống bảo hộ quyền SHTT của các nước này lại được các chủ thể nước ngoài khai thác với cơ hội lớn hơn rất nhiều.