Tìm Giải Pháp Để Phát Triển Kinh Tế Bền Vững:


nữa, Trung Quốc lớn hơn cả thị trường châu Âu và Mỹ cộng lại. Chính vì vậy thị trường nội địa đang là một thị trường mục tiêu cho các doanh nghiệp của Trung Quốc

1.2.4. Thu hút các nhân tài hồi hương:

Các doanh nghiệp Trung Quốc cố gắng lôi kéo các nhân tài hôì hương: Thành phố Quảng Châu đã thành lập quỹ trị giá 30 triệu USD để thu hút các chuyên gia tài chính nước ngoài. Thậm chí, chính quyền thành phố Thâm Quyến còn lên kế hoạch cử người tới Mỹ mùa hè này tham gia chiến dịch tuyển mộ nhân sự kỹ năng cao.

Sự phát triển kinh tế vượt bậc tại Trung Quốc trong thập niên qua đã là ngọn đèn thắp sáng, “cột mốc” để rất nhiều người từ Mỹ và các nước khác quay lại quê hương. Năm 2008, số sinh viên Trung Quốc theo học ở nước ngoài trở về nước đạt mức kỷ lục: 50.000 người, tăng 6.000 người so với năm 2007 và nhiều gấp đôi năm 2004.

1.2.5. Tìm giải pháp để phát triển kinh tế bền vững:

Trung Quốc đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao kỷ lục nhờ vào việc sản xuất những mặt hàng giá rẻ và xuất khẩu sang rất nhiều nước khác.

Tuy nhiên, điều đó đã không còn phù hợp trong thời buổi khủng hoảng kinh tế hiện nay, vì vậy các doanh nghiệp phải tìm cho mình một hướng đi mới đó là nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới công tác quản lý để tiến tới một nền kinh tế phát triển bền vững.

2. Giải pháp của khu vực ASEAN:

2.1. Khuyến khích đầu tư, tiêu dùng và thúc đẩy sản xuất kinh doanh, xuất khẩu:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.

Chính phủ các nước Đông Nam Á áp dụng chính sách khuyến khích đầu tư và ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, tạo mọi điều kiện thuận lợi


Ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế hiện nay đến Việt Nam và một số nước đang phát triển - 10

cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường xuất khẩu. Các nước trong khu vực đều đưa ra các gói kich cầu tuỳ thuộc vào hoàn cảnh của nước mình.

Nền kinh tế lớn nhất ASEAN là Indonesia có kế hoạch bơm 73,3 nghìn tỷ ru-pi-át (khoảng 613 triệu USD) vào thị trường bằng cách cắt giảm thuế. Tháng 11/2008, Chính phủ Singapo tuyên bố kế hoạch kích thích kinh tế trị giá 2,3 tỷ đô la Singapo (l,5 tỷ USD).

Tháng 3/2009, Malaysia công bố kế hoạch kích thích kinh tế trị giá 2,7 tỷ USD sau khi đã đưa ra kế hoạch trị giá 2,7 tỷ USD vào tháng 11.2008.

Trong ngân sách năm 2009, Chính phủ Philippin đã bổ sung 6,8 tỷ USĐ để tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng và tăng chi tiêu an sinh xã hội. Các quan chức Chính phủ cho biết, Philippin không chỉ tìm cách tạo thêm công ăn, việc làm mà còn tìm cách đưa công nhân trong nước ra nước ngoài làm việc.

Năm 2009, Chính phủ Campuchia đã tăng gấp đôi ngân sách để đầu từ vào các dự án giao thông và cơ sở hạ tầng.

2.2. Sử dụng chính sách tài chính linh hoạt:

Áp dụng chính sách tài chính linh hoạt, thường xuyên cắt giảm lãi suất và bơm một khối lượng lớn tiền vào hệ thống ngân hàng thương mại. Cơ quan quản lý tiền tệ của Singapore (MAS) lần đầu trong hơn 4 năm( tính từ năm 2005) quyết định cắt giảm lãi suất.

Ngân hàng Trung ương Singapore sẽ phải tiếp tục cắt giảm lãi suất trong thời gian tới. Chính phủ Việt Nam liên tục điều chỉnh lãi suất cơ bản của ngân hàng xuống, từ mức 14% trong nửa cuối năm 2008, xuống 13%, 12% và 11%.

Chính phủ Malaysia bơm 1,4 tỉ USD vào thị trường chứng khoán và cắt giảm mức tăng trưởng GDP năm 2009 từ 5,4% xuống còn 3,4%.


Thái Lan thông qua 6 biện pháp nhằm nâng cao năng lực tài chính cho các ngành kinh tế, trong đó ưu tiên lĩnh vực xuất khẩu và du lịch, các dự án vĩ mô… nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng GDP 4% (2009) so với 5,1% (2007).

Inđonesia cũng sẽ tung ra 5 tỉ USD trợ giúp tài chính, ngân hàng khắc phục khủng hoảng và kích thích kinh tế phát triển.

2.3. Đảm bảo an sinh xã hội và trợ cấp, khuyến khích phát triển nông nghiệp và giải quyết đời sống người thu nhập thấp:

Indonesia đẩy nhanh tốc độ giải ngân 25,9 nghìn tỉ rupi trong khoản ngân sách 290 nghìn tỉ rupi dành cho mạng lưới an sinh xã hội và khuyến khích phát triển trong ngân sách năm 2008 để làm dịu tình hình thanh toán bằng tiền mặt.

Singapore và Thái Lan có chính sách hỗ trợ người dân có thu nhập thấp do ảnh hưởng của giá lương thực, thực phẩm tăng cao. Thái Lan khuyến khích nông dân gieo trồng lúa vụ 3 trong năm trên diện tích đất canh tác có thể thực hiện được. Các biện pháp hỗ trợ người nghèo của chính phủ Inđônêsia gồm: hỗ trợ hoạt động của các địa phương với mức kinh phí cho mỗi xã là 3 tỉ rupi, cho phép mỗi cá nhân được vay vốn ngân hàng không phải ký quỹ tới 5 triệu rupi và phân phát tiền mặt trực tiếp tới mỗi hộ gia đình nghèo

100.000 rupi/tháng trong vòng 18 tháng.

Philippin đầu tư một khoản kinh phí lớn để cải thiện hệ thống thủy lợi, nâng cao năng suất lúa và đưa 300.000 ha đất không sử dụng được trước đây vào canh tác. Ngoài ra, chính phủ Philippin còn chi một khoản kinh phí 120,5 triệu USD đầu tư cho nghiên cứu, đào tạo và khuyến nông.

Chính phủ Malaysia đưa ra kế hoạch đầu tư 1,9 tỉ USD để mở rộng diện tích trồng lúa nước, đầu tư thâm canh tăng năng suất lúa gạo.


2.4. Củng cố mối quan hệ, hợp tác khu vực:

- Tăng cường hợp tác, tự cường khu vực; tăng cường phối hợp chính sách kinh tế vĩ mô, đi đôi với áp dụng giải pháp kích thích kinh tế thông qua công cụ ngân sách, nới lỏng tín dụng tiền tệ, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận tín dụng, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thắt chặt hơn quan hệ các nước trong khối, trong lúc khó khăn này hơn lúc nào hết các nước Đông Nam Á cần sự ổn định và chung sức chung lòng thực hiện những biện pháp đã thoả thuận ở cấp cao để vượt qua khủng hoảng kinh tế.

- Thành lập quỹ tài chính khu vực: Để đối phó với cơn bão tài chính, ASEAN thống nhất thành lập một “Quỹ dự phòng khẩn cấp”để giúp đỡ các nước cần tiền mặt. Quỹ này sẽ được sử dụng để mua các tài sản xấu và hỗ trợ về vốn đối với các tổ chức tài chính cũng như các công ty tư nhân. Ngân hàng thế giới (WB) sẽ giúp 10 tỉ USD cho quỹ này.

- ASEAN cũng sẽ phối hợp cùng với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc (ASEAN+3) thành lập một quỹ dự trữ ngoại hối chung. Quỹ gồm 17 thỏa thuận với quy mô trị giá 120 tỉ USD do các thành viên đóng góp nhằm hỗ trợ tài chính cho những tổ chức gặp khó khăn. trong đó có việc mở rộng các thỏa thuận hoán đổi ngoại tệ. Trong đó, 3 nước Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc sẽ đóng góp 80% và số còn lại sẽ do các nước ASEAN đóng góp. Hiện tại, ngành dệt may các nước ASEAN đều hoạt động độc lập, tuy nhiên về lâu dài mọi người cũng đã nghĩ đến việc nắm tay nhau để cùng vận hành một cỗ máy chung.

2.5. Thành lập công xưởng sản xuất chung các mặt hàng chủ đạo:

Việc hướng đến thành lập công xưởng sản xuất chung là hết sức cần thiết. điều này sẽ tạo thành một chuỗi liên kết sản xuất và cung ứng. Khi đó sẽ tiết kiệm được chi phí, khi bán ra thị trường thế giới sẽ không bị ép giá, hơn nữa không những tạo được thương hiệu cho cả khối mà còn cho từng nước trong


khu vực. Ngành dệt may có lẽ sẽ là ngành đầu tiên cần được sản xuất đi theo hướng này.

Trong cuộc tọa đàm về sự hợp tác của ngành dệt may trong Hiệp hội Dệt may khu vực Đông Nam Á (AFTEX) gồm: Campuchia, Indonesia, Lào, Singapore, Thái Lan và Việt Nam, cùng 4 nước ngoài hiệp hội là Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản và Hàn Quốc và đại diện Hiệp hội Thời trang Châu Á (AFF) diễn ra tại Tp.HCM, đại diện của các hiệp hội dệt may và thời trang của các nước đều nhận định rằng tình hình sản xuất dệt may đang rất khó khăn, tùy theo tình hình điều kiện riêng của từng nước nhưng nhìn chung ngành dệt may các nước đang đối mặt với hoạt động xuất khẩu sụt giảm, nhiều người lao động trong ngành bị mất việc làm, giá đơn hàng thấp, giá trị đơn hàng thu nhỏ lại, hoạt động thanh toán chậm chạp...

Trong quý 1/2009, Singapore có tỷ lệ sụt giảm đơn hàng gia công ở mức từ 30-40%. Ở Thái Lan, xuất khẩu dệt may giảm đến 40%, quy mô các đơn hàng nhỏ lẻ, giá cả sụt giảm và thị trường tiêu thụ nội địa cũng giảm từ 20%- 30% so với cùng kỳ. Đối với Việt Nam, quý 1/2009 kim ngạch xuất khẩu của dệt may cũng giảm so với cùng kỳ năm trước với giá trị xuất khẩu chỉ đạt 1,9 tỷ USD.

Ngành dệt may các nước ASEAN đang đặt ra mục tiêu tiến tới biến khu vực thành phân xưởng sản xuất dệt may của thế giới. Sự hợp tác của ngành dệt may các thành viên không chỉ giúp ngành dệt may khu vực phục hồi nhanh chóng mà còn đạt được sự tăng trưởng thương mại trong vùng lên gấp đôi vào năm 2015 so với hiện nay.

Dệt may là ngành kinh tế tiềm năng của ASEAN. Mỗi quốc gia trong khu vực đều có lợi thế riêng biệt. Thái Lan và Indonesia có lợi thế về nguồn nguyên liệu trong khi Việt Nam, Campuchia và Lào lại rất mạnh trong lĩnh vực lắp ráp và may mặc. Nếu các thành viên trong khối phối hợp lại thì


không chỉ xây dựng được thương hiệu riêng cho bản thân từng quốc gia mà còn tạo nên được giá trị chung cho ngành sản xuất của cả khu vực.

Vì vậy, các nước có thể bàn bạc để hình thành chuỗi liên kết cung ứng và sản xuất, khi đó Thái Lan và Indonesia cung cấp nguyên liệu cho Việt Nam, Campuchia và Lào để các nước này tạo ra sản phẩm và bán cho cả thế giới. Nếu doanh nghiệp dệt may các nước trong khối hợp tác với nhau thì giá trị của sản phẩm sẽ không còn bị ép giá thấp như hiện nay.

2.6. Xây dựng một cộng đồng ASEAN theo kiểu Liên minh châu Âu (EU) trong tương lai:

Cuộc khủng hoảng cũng giúp các nước ASEAN nhận thức được rằng, khu vực phải tăng cường khả năng độc lập về tài chính để giảm thiểu những tác dụng mà cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu gây ra. Vì vậy, việc hướng tới xây dựng một cộng đồng ASEAN theo kiểu liên minh châu Âu là hết sức đúng đắn và cần thiết.


II. Giải pháp của Việt Nam để ứng phó với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu:


Dựa trên những giải pháp của các nước trên thế giới, đặc biệt là những nước có nền kinh tế, chính trị tương đồng với Việt Nam như Trung Quốc và khu vực Asean, em xin trình bày các biện pháp mà Chính phủ Việt Nam và các doanh nghiệp đã và đang sử dụng, đồng thời kiến nghị một số giải pháp sau.

1. Giải pháp của chính phủ:


1.1. Đẩy mạnh sản xuất kinh doanh và xuất khẩu.

Đẩy mạnh sản xuất kinh doanh là giải pháp cơ bản nhất bởi vì muốn tăng trưởng kinh tế thì phải đẩy mạnh sản xuất, phát triển dịch vụ.

Tăng kim nghạch xuất khẩu sẽ góp phần làm cho nền kinh tế tăng trưởng cao và nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Muốn vậy nhất thiết cơ cấu hàng xuất


khẩu của Việt Nam hiện nay cần phải được thay đổi theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao, sản phẩm có hàm lượng công nghệ, chất xám cao, giảm dần tỉ trọng xuất khẩu hàng thô; đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ. Cần tìm tòi và phát hiện những sản phẩm mà Việt Nam có lợi thế so sánh để chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu. Khi xem xét về lợi thế so sánh, điều quan trọng là ngoài lợi thế tĩnh hiện có, còn phải xem xét những lợi thế động, là lợi thế có tiềm năng và sẽ suất hiện khi có điều kiện nhằm tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm xuất khẩu Việt Nam. Để thực hiện được những nhiệm vụ trên, chúng ta phải có những biện pháp cụ thể, đồng bộ.

Để đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu thì vai trò của Nhà nước là hết sức quan trọng. Trong tình hình hiện nay, Nhà nước cần làm tốt công việc sau đây:

1.1.1. Nâng cấp kết cấu hạ tầng thương mại:

Nhà nước cần ưu tiên và dành nguồn vốn để tập trung đầu tư nâng cấp kết cấu hạ tầng thương mại, đặc biệt là tại các cửa khẩu, cũng như đường bộ đường sắt dẫn tới biên giới, cảng biển, cảng sông và các phương tiện liên quan. Trong đó cần chú ý đến một số cửa khẩu lớn giáp Trung Quốc, Lào, Campuchia…từ đó nối với Thái Lan, Myanmar… để khai thác tốt hơn những thoả thuận về thương mại trong khu vực Tiểu vùng sông Mê Kông. Các cơ quan quản lý Nhà nước cần tăng cường áp dụng các quy trình quản lý chất lượng công việc và chất lượng các thủ tục hành chính công, thường xuyên giám sát, quản lý hiệu quả chất lượng của các thủ tục hành chính cũng như dịch vụ công.


1.1.2.Đẩy mạnh xúc tiến thương mại:

Nhà nước cần quan tâm đúng mức những hoạt động và hiệu quả công tác xúc tiến thương mại, đặc biệt là hoạt động nghiên cứu tựi trường, đẩy mạnh xúc tiến thương mại ở cấp chính phủ, phát triển thương mại điện tử để giảm chi phí tíêp thị. Nhà nước và các bộ máy liên quan sớm thay đổi cơ bản các chương trình xuất khẩu theo hướng thiết kế các chương trình theo hướng chuyên nghành đối với từng mặt hàng mới ( hoặc mặt hàng cần hỗ trợ ), tập trung vào một số thị trường mới ( hoặc thị trường cụ thể cần ưu tiên phát triển); triển khai thực hiện các chương trình để quản bá hình ảnh quốc gia, các sản phẩm của Việt Nam trên các phương tiện thông tin đại chúng ở nước ngoài; nâng cao vai trò của các cơ quan đại diện ngoại giao và đại diện thương mại của Việt Nam ở nước ngoài, để làm cầu nối giúp doanh nghiệp trong nước tìm hiểu thông tin, thâm nhập thị truờng.

1.1.3.Cởi mở hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài:

Nhà nước cần có chính sách cởi mở hơn đối với đầu tư nước ngoài để tăng cường thu hút đầu tư, đặc biệt là đầu tư vào những lĩnh vực mà các doanh nghiệp trong nước còn hạn chế về năng lực thực hiện; phải đổi mới cơ chế, chính sách tín dụng liên quan đến xuất khẩu theo hướng tạo điều kiện cấp tín dụng cho đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu, hướng tới các dịch vụ tín dụng phục vụ người mua, thay vì chỉ phục vụ nhà xuất khẩu trong nước; khuyến khích sự tham gia của các ngân hàng thương mại vào hoạt động hàng hoá xuất khẩu, chuyển từ hình thức cho vay thương mại sang tài trợ các dự án sản xuất vì mục đích xuất khẩu. Nghiên cứu việc xây dựng và ban hành các chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp của người Việt Nam ở nước ngoài để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá vào nước sở tại; đồng thời có các chính sách phù hợp để khuyến khích các công ty đa quốc gia hoạt động tại Việt Nam tiêu thụ sản phẩm qua mạng lưới thị trường sãn có của các công ty này;

Xem tất cả 114 trang.

Ngày đăng: 29/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí