Đa dạng hóa các biện pháp xử lý nợ xấu trong cho vay kinh doanh bất động sản.
Ngoài các biện pháp xử lý nợ đã quá hạn được áp dụng tại BIDV Quang Trung thì vẫn còn một số biện pháp mà trong một số trường hợp tỏ ra rất hiệu quả trong việc xử lý nợ quá hạn.
+ Xử lý nợ xấu trông qua thu hồi trực tiếp và thông qua phát mãi tài sản đảm bảo nợ vay.
Trên cơ sở kết quả phân loại nợ định kỳ, ngân hàng chỉ đạo các chi nhánh thực hiện rà soát, xây dựng phương án xử lý, thu hồi nợ xấu theo từng biện pháp cụ thể. Theo đó, biện pháp thu hồi nợ trực tiếp từ khách hàng, thu hồi nợ thông qua việc phát mãi tài sản đảm bảo được ưu tiên đặt lên hàng đầu.
+ Xử lý nợ xấu bằng biện pháp cơ cấu lại nợ
Cơ cấu lại nợ là biện pháp được sử dụng khi một khoản nợ đến kỳ hạn trả nợ nhưng ngân hàng đánh giá khách hàng khó có khả năng trả nợ cho Ngân hàng theo lịch trả nợ đã ký trước đó do khách hàng gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh, tuy nhiên nếu ngân hàng thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ (gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ) thì khách hàng hoàn toàn có khả năng trả nợ cho ngân hàng đúng hạn.
+ Xử lý nợ xấu bằng quỹ dự phòng rủi ro
Thực hiện theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN và Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước, ngân hàng BIDV Việt Nam đã ban hành Quyết định số 636/QĐ- HĐQT-XLRR quy định về phân loại nợ, trích lập dự phòng và xử lý rủi ro. Chi nhánh Quang Trung cũng căn cứ vào quy định này và các chỉ đạo, hướng dẫn của ngân hàng cấp trên trong việc quản trị nợ xấu của chi nhánh.
+ Xử lý nợ xấu bằng biện pháp giảm, miễn lãi Biện pháp này được áp dụng nhằm giảm bớt khó khăn về tài chính cho khách hàng, tạo điều kiện cho khách hàng khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh, ổn định cuộc sống, khuyến khích khách hàng trả một phần hoặc toàn bộ khoản nợ xấu còn lại tại ngân hàng.
+ Xử lí nợ xấu bằng biện pháp thu nợ có chiết khấu
Có thể bạn quan tâm!
- Tác Động Của Nợ Xấu Trong Cho Vay Kinh Doanh Bất Động Sản Đối Với Nhtm Cổ Phần Bidv Việt Nam – Chi Nhánh Quang Trung
- Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Trong Cho Vay Kinh Doanh Bđs Tại Ngân Hàng Bidv – Chi Nhánh Quang Trung
- Giải pháp hạn chế nợ xấu trong cho vay kinh doanh bất động sản tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Quang Trung - 11
Xem toàn bộ 100 trang tài liệu này.
Đây là hình thức giảm giá trị khoản nợ phải trả cho con nợ, giá trị chiết khấu do ngân hàng và con nợ thỏa thuân nhưng theo hướng có lợi cho con nợ nhằm thúc đẩy việc thanh toán dứt điểm khoản nợ. Tuy ngân hàng sẽ chịu thiệt hại một phần nhất định nhưng sớm thu hồi được khoản nợ và loại bỏ được khoản nợ xấu trên Bảng cân đối tài sản.
+ Xử lý nợ xấu bằng biện pháp pháp lý
Biện pháp pháp lý thường là biện pháp được Ngân hàng áp dụng cuối cùng, sau khi các biện pháp khác đã áp dụng nhưng việc xử lý thu hồi nợ không hiệu quả. Do vậy, cần sự hỗ trợ của các cơ quan pháp luật như Tòa án, Thi hành án nhằm hỗ trợ ngân hàng tận thu hồi nợ vay.
+ Xử lý nợ xấu bằng các biện pháp khác
Ngoài việc xử lý nợ xấu bằng các biện pháp nêu trên, trong thời gian qua NH còn thực hiện biện pháp xử lý nợ xấu trên cơ sở sự giúp đỡ, hỗ trợ, tạo điều kiện của nhiều Bộ, ban ngành như Bộ Giao thông vận tải, Bộ Xây dựng, BTC, Kho bạc Nhà nước, UBND tỉnh, …
+ Biện pháp đồng tài trợ
Trong một số trường hợp các khoản nợ xấu vượt khả năng của một ngân hàng hoặc đủ hoặc không đủ hiệu quả giải quyết và cần có sự phối hợp giữa các ngân hàng theo dạng đồng tài trợ hay hợp vốn để xử lý nợ quá hạn tạo ra thế mạnh như: Mỗi ngân hàng có hệ thống khách hàng quen thuộc có lĩnh vực am hiểu tường tận hay nói cách khác là có thế mạnh riêng. Do đó, việc đồng tài trợ sẽ tập trung và bổ sung cho nhau thế mạnh, hạn chế mặt yếu, tạo sự kiểm soát đồng bộ về khách hàng, bổ sung vốn, nghiệp vụ và học hỏi lẫn nhau về nghiệp vụ.
+ Áp dụng hiệu quả biện pháp bán nợ xấu
Với việc tham gia thị trường mua bán nợ, BIDV Quang Trung có thể xem xét bán các khoản nợ quá hạn khó đòi cho các công ty mua bán nợ, các ngân hàng hay các chủ thể kinh tế khác…Việc này giúp cho Ngân hàng tập trung công việc kinh doanh mới, thực hiện các biện pháp phòng ngừa nợ quá hạn hiệu quả mà không chịu ảnh hưởng từ việc giải quyết nợ tồn đọng với khách hàng. Hơn nữa, các chủ thể tiến hành mua bán nợ trên thị trường hoạt động chuyên nghiệp và tận dụng lợi thế thông tin, quy mô và quyền hạn… đặc biệt không chịu áp lực về mối quan hệ với khách hàng như ngân hàng nên việc xử lý nợ sẽ hiệu quả hơn.
Đối với các tài sản đảm bảo nợ thuộc những vụ án đã được Tòa án phán quyết nhưng chưa giao tài sản cho Ngân hàng, Ngân hàng chủ động phối hợp với cơ quan thi hành án chóng thu hồi và nhận tài sản để xử lý. Sau đó, những khoản nợ này mới được bán cho các công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp. Đối với những khoản nợ không có tài sản bảo đảm nhưng vẫn đủ hồ sơ pháp lý, không có tranh chấp, khách nợ còn tồn tại và hoạt động: BIDV Quang Trung xác định khả năng tự thu và bán nợ chỉ định… 3.3 Kiến nghị đối với cơ quan quản lí Nhà nước
3.3.1 Kiến nghị đối với Nhà nước
Bức tranh ảm đạm của thị trường BĐS 2012 đã phơi bày nhiều bất cập mà hậu quả của nó sẽ có ảnh hưởng kéo dài “vắt” sang năm 2013, 2014. Thị trường BĐS trầm lắng, giá cả sụt giảm và mất cân đối cung cầu hàng hóa. Mức dư nợ hiện nay khá cao.
Thị trường BĐS đóng băng không những gây khó khăn cho các doanh nghiệp BĐS mà còn ảnh hưởng tới tính thanh khoản của các tổ chức tín dụng.
Thời điểm thống kê đến hết tháng 10-2012 của NHNN, con số này đã lên đến 207.595 tỷ đồng. Trong khi đó, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2012 chảy vào thị trường BĐS nhỏ giọt. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính 11 tháng đầu năm 2012 vốn FDI tăng thêm và cấp mới vào BĐS đạt 1,84 tỷ USD trong tổng mức vốn FDI đăng ký là 7,25 tỷ USD.
Theo các chuyên gia kinh tế, các phân khúc trong thị trường BĐS vẫn còn nhiều khó khăn, ít nhất là từ nay đến hết năm 2013 do ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế vĩ mô trong vòng luẩn quẩn như: Tăng trưởng chậm dẫn tới thu nhập giảm, từ đó cầu về nhà ở giảm và các ngành liên quan đến xây dựng giảm và dẫn tới hệ quả là tăng trưởng kinh tế chậm… Bên cạnh đó, nợ xấu BĐS từ hệ thống ngân hàng chưa thể giải quyết trong “một sớm một chiều” sẽ ảnh hưởng đến tính thanh khoản của thị trường BĐS vì ngân hàng khó có thể cho doanh nghiệp hay chủ dự án vay khi chưa giải quyết xong nợ cũ. Điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn vốn trong nước. Còn nguồn vốn FDI hoặc kiều hối cũng khó có khả năng tăng đột biến do sức sinh lời của thị trường BĐS Việt Nam đang trong giai đoạn giảm sẽ khiến giảm sức hút của nhà đầu tư nước ngoài.
Làm sao để tạo “cú hích” cho thị trường BĐS trong năm 2013. Đó là câu hỏi không chỉ làm đau đầu nhà đầu tư mà của các nhà hoạch định chính sách, nhằm kích cầu thị trường, tăng trưởng kinh tế. Ngay từ cuối năm 2012, Bộ Tài chính đã đề xuất trình Chính phủ gói 21 giải pháp hỗ trợ thị trường nói chung trong đó có nhiều giải pháp tháo gỡ khó khăn cho thị trường BĐS và thị trường vốn.
– Để từng bước tháo gỡ khó khăn cho thị trường BĐS, trong thời gian tới cần tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện khung pháp lý về thị trường BĐS, trong đó có Luật Đất đai sửa đổi, hướng dẫn thực hiện Chiến lược nhà ở… Trong đó, đặc biệt, cần xây dựng nguồn số liệu về thị trường BĐS chính xác, công khai và minh bạch nhằm quản lý tốt thị trường BĐS và tạo sự minh bạch cho thị trường.
– Bên cạnh đó, các doanh nghiệp, chủ đầu tư cũng phải chủ động cơ cấu lại nguồn hàng hóa và chủ động tìm kiếm các nguồn tài chính để hoàn thiện dự án, đồng thời có nhiều giải pháp khuyến mại, hạ giá thành nhằm kích cầu tiêu dùng. Do tính thanh khoản của thị trường đang trong tình trạng kém bởi nguồn vốn trong và ngoài nước khó tăng đột biến, do vậy cần triển khai mô hình các định chế tài chính khác nhằm hỗ trợ vốn cho thị trường như các quỹ tiết kiệm BĐS, quỹ tín thác BĐS… để cung cấp vốn trung và dài hạn cho thị trường.
– Ngoài ra, cần tiếp tục định hướng để các chủ đầu tư tập trung triển khai các loại căn hộ thương mại bình dân, nhà ở xã hội, nhà cho thuế trên cơ sở Nhà nước tăng thêm ưu đãi triển khai dự án nếu thấy cần thiết nhằm đảm bảo an sinh xã hội. Tạo môi trường thuận lợi để các chủ đầu tư bên ngoài cùng tham gia xây dựng nhà ở xã hội.
Hiện nay, Việt Nam mới chỉ có chỉ số giá về giá nhà ở và vật liệu xây dựng, vì thế các mảng hoặc phân khúc khác của thị trường BĐS vẫn chưa có chỉ số giá cả tương ứng, nên quá trình theo dõi diễn biến cung cầu, giá cả thị trường các hàng hóa còn lại rất khó khăn, ảnh hưởng đến việc quản lý thị trường BĐS. Do đó, cần khẩn trương xây dựng chỉ số giá cả thị trường đối với các hàng hóa còn lại của thị trường BĐS để làm cơ sở cho việc giá tính thu các khoản liên quan đến nhà đất vào NSNN đảm bảo sát giá thị trường, tránh thất thu cho NSNN. Chính phủ phải có thái độ dứt khoát sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước, chỉ để tồn tại những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, những doanh nghiệp cần thiết cho dân sinh, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước.
– Nhà nước cần kiểm soát chặt chẽ, tăng cường trách nhiệm trong việc cấp giấy phép cho các dự án đầu tư kinh doanh bất động sản sao cho phù hợp với năng lực thực tế của doanh nghiệp đó. Những năm gần đây, những khó khăn cản trở lớn với hoạt động cho vay của Ngân hàng là sự không phù hợp giữa năng lực, trình độ thực tế của doanh nghiệp và phạm vi kinh doanh được Nhà nước cho phép. Nhiều doanh nghiệp cả quốc doanh và ngoài quốc doanh được Nhà nước cấp giấy phép thành lập và cho đăng ký kinh doanh với chức năng, nhiệm vụ vượt quá năng lực tài chính, trình độ kỹ thuật… – Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện và sửa đổi, ban hành các bộ luật, văn bản dưới hình thức luật liên quan đến hoạt động của nền kinh tế nói chung và đến hoạt động ngân hàng và bất động sản nói riêng tạo hành lang pháp lý cho hoạt động doanh nghiệp và các NHTM đi đúng hướng.
– Nhà nước cần có biện pháp đảm bảo môi trường kinh tế ổn định, góp phần đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn ngân hàng cấp cho nền kinh tế. Nhà nước nên có những bước đệm hoặc những giải pháp thực hiện gỡ những khó khăn gây ra khi có sự chuyển đổi, điều chỉnh cơ chế, chính sách liên quan toàn bộ nền kinh tế.
– Chính phủ nên có các quy định khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào hệ thống NHTM. Nếu ngân hàng bán nợ cho các công ty tài chính nước ngoài thì không những có thêm nguồn vốn hoạt động mà còn có cơ hội tiếp cận với các phương thức quản trị ngân hàng hiện đại, các công nghệ ngân hàng mới.
– Kiên quyết đặt NHTM vào đúng vị trí, chức năng của nó, các Ngân hàng phải giữ quyền tự chủ về nghiệp vụ, chủ động nâng cao chất lượng các khoản tín dụng và mỗi khoản tín dụng phải được Ngân hàng thẩm định, tự quyết cho vay và chịu trách nhiệm về những quyết định của mình chứ không phải chịu sức ép phi kinh tế nào.
3.3.2 Kiến nghị với NHNN và các cơ quan chức năng
– NHNN nên có cơ chế cho NHTM có quyền chủ động trong việc xử lý phát mại tài sản thu hồi nợ. Với nhiều trường hợp, khách hàng vay vốn thế chấp bằng chính dự án bất động sản đang xây dựng, khi khách hàng mất khả năng trả nợ, ngân hàng tiến hành xử lý tài sản đảm bảo thì vấp phải khó khăn. Một trong những khó khăn đó là theo Luật dân sự. – NHNN cần tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động tín dụng của các NHTM. Hoạt động này đóng một vai trò quan trọng trong việc phát hiện các dấu hiệu nợ quá hạn, nợ xấu để ngăn chặn và xử lý rủi ro tín dụng trong cho vay kinh doanh bất động sản của hệ thống ngân hàng. Vì sự hoạt động bất ổn của một ngân hàng cũng sẽ dẫn tới ảnh hưởng đến cả hệ thống ngân hàng. NHNN cần bám sát thực tế hoạt động của từng NHTM để sớm phát hiện và ngăn chặn các sai phạm.
– NHNN cho phép các NHTM được đầu tư hoàn chỉnh thêm vào các tài sản đã được gán nợ còn xây dựng dở dang hoặc bị hư hỏng, xuống cấp; thực hiện các chi phí bảo hiểm bắt buộc để góp phần bảo quản tốt tài sản, hạn chế thiệt hại và có khả năng xử lý được. Nguồn vốn lấy từ vốn kinh doanh để đầu tư, sau đó hạch toán tăng giá trị tài sản nhận gán nợ. Ngân hàng Nhà nước cần hướng dẫn việc hạch toán tài sản đã nhận gắn nợ phù hợp nguyên tắc trả nợ bằng tài sản.
– NHNN cần tiếp tục nghiên cứu kinh nghiệm thực tế, theo dõi và đánh giá hiệu quả các giải pháp cụ thể ở các nước trong khu vực và thế giới để rút kinh nghiệm chủ động ban hành hoặc đề xuất với Chính phủ các cơ chế, quy định nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý thông thoáng và an toàn trong việc giải tỏa, phát mại tài sản thế chấp.
– Chính phủ và NHNN cần tạo hành lang pháp lý để các NHTM có quyền tự chủ đứng ra tổ chức bán tài sản cầm cố, thế chấp để thu hồi vốn đối với các khoản nợ quá hạn, đặc biệt có thể có các chính sách ưu tiên đối với những khoản nợ khó thu hồi phát sinh như miễn thuế, doanh thu, thuế chuyển quyền sử dụng đất, chi thu phí dịch vụ bán đấu giá một lần khi bán được tài sản cầm cố, thế chấp trong trường hợp phát mại tài sản qua các trung tâm bán đầu giá.
– Các cơ quan chức năng cần phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp ra đời của một doanh nghiệp ngoài quốc doanh bằng “vốn ảo”. Mạnh dạn cho giải thể, phá sản doanh nghiệp làm ăn thua lỗ không có khả năng trả nợ ngân hàng quá lâu. Các cơ quan hữu quan nhất là các cơ quan pháp luật cần giúp đỡ ngân hàng trong việc quản lý nợ quá hạn thu hồi vốn cho Nhà nước, xử lý cán bộ ngân hàng nghiêm minh, đúng người đúng tội khi có vi phạm liên quan.
– Đối với các cơ quan thực thi pháp luật như Tòa án, Viện Kiểm sát, Công an, Chính quyền địa phương các cấp cần phối hợp với ngân hàng trong việc xử lý và giải quyết các khoản nợ xấu không có khả năng thu hồi.
– Chính quyền các cấp cùng các cơ quan chủ quan các doanh nghiệp cần nâng cao trách nhiệm của mình trong việc đôn đốc con nợ thực hiện nghĩa vụ thanh toán với ngân hàng. KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Chương 3 đã trình bày xu hướng của thị trường BĐS Việt Nam trong tương lai và định hướng về hạn chế nợ xấu trong cho vay kinh doanh BĐS của Chi nhánh BIDV Quang Trung. Bên cạnh đó, ở chương này cũng đã đề xuất và phân tích một số giải pháp hạn chế và quản lý nợ xấu trong cho vay kinh doanh BĐS tại ngân hàng thương mại cổ phần BIDV Việt Nam – chi nhánh Quang Trung liên quan đến xây dựng biện pháp phòng ngừa rủi ro hiệu quả và tăng cường quản lý nợ xấu tại BIDV Quang Trung. Thông qua đó, tác giá có một số đánh giá chung về công tác hạn chế nợ xấu trong cho vay kinh doanh BĐS tại chi nhánh BIDV Quang Trung và một vài kiến nghị với NHNN và các cơ quan chức năng.
KẾT LUẬN
Nền kinh tế Việt Nam đã có rất nhiều thay đổi tích cực từ khi ra nhập WTO. Sự thay đổi này vừa tạo cho nước ta nhiều cơ hội trong mở rộng thị trường, đẩy mạnh tiến bộ khoa học kĩ thuật… nhưng cũng gây ra không ít những thách thức như mức độ cạnh tranh trên thị trường ngày càng khốc liệt hơn, sự ràng buộc của luật pháp quốc tế… cho các doanh nghiệp Việt Nam và các NHTM cũng không phải ngoại lệ. Bên cạnh đó, khi kinh tế thế giới có nhiều biến động sẽ ảnh hưởng rất lớn đến mọi mặt của nền kinh tế Việt Nam, trong đó có lĩnh vực BĐS. Tuy đây không phải là lĩnh vực quá mới mẻ với các nhà đầu tư Việt Nam nhưng sự thiếu chuyên nghiệp trong quản lí, điều hành thị trường BĐS, hay những “bong bóng BĐS” luôn đẩy thị trường còn non trẻ của nước ta vào khủng hoảng. Điều đó không chỉ ảnh hưởng tới các nhà đầu tư và các khách hàng trên thị trường mà còn tác động trực tiếp tới những “chủ nợ” là các NHTM tại Việt Nam.
Trong những năm gần đây, hệ thống NHTM Việt Nam đã có những bước chuyển mình đáng kể. Tuy nhiên, nợ xấu nói chung và nợ xấu trong cho vay kinh doanh BĐS hiện nay đang là vấn đề đáng lo ngại, gây nhiều khó khăn cho các NHTM và gây ra những bất ổn trong hệ thống tài chính quốc gia. Măc dù, nợ xấu trong cho vay kinh doanh BĐS phát sinh đa phần do những nguyên nhân khách quan như bất ổn kinh tế, chính trị… song không thể phủ nhận được một phần không nhỏ xuất phát từ sự chủ quan của các NHTM. Khi nợ xấu trong lĩnh vực cho vay kinh doanh BĐS xảy ra sẽ gây ra những thiệt hại nặng nề cho nền kinh tế. Bởi BĐS là loại hàng hóa vô cùng đặc biệt, đóng vai trò cực kì quan trọng trong nền kinh tế, khi hàng hóa này được lưu thông tốt tất yếu nền kinh tế sẽ tăng trưởng tốt và ngược lại, khi thị trường này bị ngưng trệ sẽ ảnh hưởng đến rất nhiều yếu tố khác của nền kinh tế như sản xuất vật liệu xây dựng, nhân công xây dựng, doanh thu của chủ đầu tư xây dựng, các khoản cho vay BĐS của NHTM… Bởi vậy, hiện nay hạn chế nợ xấu trong cho vay kinh doanh BĐS đang là một bài toán khó chưa có lời giải đáp.
Sau quá trình nghiên cứu tại ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) – Chi nhánh Quang Trung, trải qua việc phân tích thực trạng nợ xấu, nguyên nhân cũng như giải pháp quản lí nợ xấu trong cho vay kinh doanh BĐS tại chi nhánh. Em nhận thấy đây là một đề tài lớn, được nhiều ngân hàng và nhà chuyên môn nghiên cứu và phát triển đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế hiện nay. Trong khuôn khổ khóa luận không thể không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được những đóng góp của các thầy cô để khóa luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hệ thống các văn bản pháp luật, nghị định, thông tư liên quan đến tín dụng NHTM và nợ xấu của NHTM như Luật dân sự 2005, Luật kinh doanh bất động sản 2006, Nghị định 153/2007/NĐ-CP, Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN… 2. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Báo cáo thường niên năm 2011, 2012 3. PGS.TS Mai Văn Bạn, Giáo trình nghiệp vụ ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản Tài chính, 2011.
4. PGS.TS Phan Thị Thu Hà, Quản trị ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản Giao thông vận tải, 2009.
5. Một số trang web:
http://dantri.com.vn
http://bidv.com.vn
http://luanvan.com.vn
http://tailieu.vn
http://thoibaonganhang.vn
http://vneconomy.vn
http://vnexpress.net
http://www.tapchitaichinh.vn