dáng kiến trúc, thiết kế, hành vi, trang phục, biểu tượng, lễ nghi, ngôn ngữ. Những biểu trưng trực quan này thể hiện những giá trị thầm kín hơn nằm sâu bên trong hệ thống tổ chức mà mỗi thành viên và những người hữu quan có thể cảm nhận được. Các biểu trưng phi trực quan bao gồm lý tưởng, niềm tin, bản chất mối quan hệ con người, thái độ và phương pháp tư duy, ảnh hưởng của truyền thống và lịch sử phát triển của tổ chức đối với các thành viên.
Theo Edgar H.Schein, ông đã chia văn hoá doanh nghiệp thành các lớp khác nhau, sắp xếp theo thứ tự phức tạp và sâu sắc khi cảm nhận các giá trị văn hoá của doanh nghiệp. Thuật ngữ “lớp” dùng để chỉ mức độ có thể cảm nhận được của các giá trị văn hoá trong doanh nghiệp. Lý do của việc phân chia này là do văn hoá doanh nghiệp phục vụ hai chủ thể chính là chủ thể bên ngoài và chủ thể bên trong. Chủ thể bên ngoài là khách hàng, nhà cung cấp, người lao động. Chủ thể bên trong là nhà quản trị và nhân viên công ty. Việc phân loại như vậy sẽ giúp chúng ta hiểu rõ bản chất của văn hoá doanh nghiệp cũng như các biện pháp xây dựng văn hoá doanh nghiệp.
Mô hình các lớp văn hoá doanh nghiệp:
- Những quá trình và cấu trúc hữu hình của doanh nghiệp
- Những giá trị được chấp nhận
- Những quan niệm chung
Có thể bạn quan tâm!
- Văn hóa doanh nghiệp của ngân hàng công thương Việt Nam nghiên cứu điển hình chi nhánh ngân hàng công thương Hai Bà Trưng - 1
- Đối Với Hiệu Quả Hoạt Động Của Doanh Nghiệp
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Tới Văn Hoá Doanh Nghiệp
- Thực Trạng Văn Hoá Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Công Thương Hai Bà Trưng
Xem toàn bộ 98 trang tài liệu này.
2.1. Những quá trình và cấu trúc hữu hình của doanh nghiệp
Đây là nội dung rõ ràng, là tầng bề mặt dễ quan sát nhất của văn hoá doanh nghiệp. Lớp này bao gồm tất cả những hiện tượng và sự vật mà một người có thể nhìn thấy, nghe thấy và cảm thấy khi tiếp xúc với một tổ chức có nền văn hoá xa lạ. Những quá trình và cấu trúc hữu hình của doanh nghiệp
bao gồm 5 nhóm yếu tố.
2.1.1. Kiến trúc của doanh nghiệp
Bao gồm kiến trúc ngoại thất và thiết kế nội thất công sở. Từ sự tiêu chuẩn hóa về màu sắc, kiểu dáng đặc trưng, thiết kế nội thất như mặt bằng, quầy, bàn ghế, phòng, giá để hàng, lối đi, loại dịch vụ, trang phục đến những chi tiết nhỏ nhặt như đồ ăn, vị trí công tắc điện, thiết bị. Tất cả đều được sử dụng để tạo ấn tượng thiện trí với khách hàng cũng như cảm giác thân quen, được quan tâm cho nhân viên. Sở dĩ như vậy là vì kiến trúc ngoại thất có thể có ảnh hưởng quan trọng đến hành vi con người về phương diện cách thức giao tiếp, phản ứng và thực hiện công việc. Hơn nữa, công trình kiến trúc có thể được coi là một “linh vật” biểu thị một ý nghĩa, giá trị nào đó của một tổ chức, chẳng hạn: giá trị lịch sử gắn liền với sự ra đời và trưởng thành của tổ chức, các thế hệ nhân viên, xã hội, còn các kiểu dáng kết cấu có thể được coi là biểu tượng cho phương châm chiến lược của tổ chức. Trong xã hội ngày nay, các doanh nghiệp càng chú ý hơn tới kiến trúc, diện mạo của mình để khẳng định năng lực tài chính của doanh nghiệp cũng như uy thế trước các đối thủ, đối tác và khách hàng.
2.1.2. Các nghi lễ
Đó là những hoạt động đã được dự kiến từ trước và chuẩn bị kỹ lưỡng dưới hệ thống các sự kiện văn hoá - xã hội chính thức, được thực hiện định kỳ hay bất thường nhằm thắt chặt mối quan hệ và thường được tổ chức vì lợi ích của những người tham dự. Những người quản lý có thể sử dụng nghi lễ như một cơ hội quan trọng để giới thiệu về những giá trị được tổ chức coi trọng, để nhấn mạnh những giá trị riêng của tổ chức, tạo cơ hội cho mọi thành viên cùng chia sẻ cách nhận thức về những sự kiện trọng đại, để nêu gương và khen tặng những tấm gương điển hình đại biểu cho những niềm tin và cách
thức hành động cần được tôn trọng. Có bốn loại nghi lễ cơ bản: chuyển giao (khai mạc, giới thiệu thành viên mới, chức vụ mới, lễ ra mắt), củng cố (lễ phát phần thưởng), nhắc nhở (sinh hoạt văn hoá, chuyên môn, khoa học), liên kết (lễ hội, liên hoan, tết). Trong các thành phần thì các sự kiện, lễ kỷ niệm là hoạt động sống động và dễ nhớ nhất đối với thành viên doanh nghiệp. Các nghi lễ thường được xem như sự tôn vinh văn hoá doanh nghiệp, giúp gợi nhớ và củng cố các giá trị văn hoá.
2.1.3. Biểu tượng, logo, bản tuyên bố sứ mệnh
Biểu tượng là từ ngữ, vật thể, trạng thái, hành động hay các đặc điểm tạo nên sự khác biệt có ý nghĩa đối với cá nhân và nhóm. Bên cạnh biểu tượng, logo và bản tuyên bố sứ mệnh cũng là hai thứ dễ thấy và cho ta cái nhìn cơ bản về văn hoá doanh nghiệp.
Logo là một tác phẩm sáng tạo được thiết kế để thể hiện hình tượng về một tổ chức, một doanh nghiệp bằng ngôn ngữ nghệ thuật phổ thông. Hình ảnh này thường có sức mạnh rất lớn vì chúng hướng sự chú ý của người quan sát vào một chi tiết hay điểm nhấn cụ thể, có thể diễn đạt được giá trị chủ đạo mà tổ chức, doanh nghiệp muốn tạo ấn tượng, lưu lại hay truyền đạt cho người thấy nó. Đây là loại biểu trưng đơn giản nhưng lại có ý nghĩa rất lớn nên được các tổ chức, doanh nghiệp rất coi trọng. Nếu như logo thể hiện hình ảnh trừu tượng nhưng có ý nghĩa cô đọng và bao quát nhất về doanh nghiệp thì bản tuyên bố sứ mệnh xác định tầm nhìn dài hạn của doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ làm gì và phục vụ cho ai.
2.1.4. Ngôn ngữ, khẩu hiệu
Trong thực tế, để làm việc được cùng với nhau chúng ta cần phải có sự hiểu biết lẫn nhau thông qua việc dùng chung một ngôn ngữ. Phong cách giao
tiếp ngôn ngữ của nhân viên với nhau, với khách hàng hay cấp trên đều thể hiện nét văn hoá doanh nghiệp. Tuy vậy, mỗi cá nhân có phong cách giao tiếp khác nhau, chính vì thế sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hình ảnh và cách nhìn nhận của khách hàng, nhà cung cấp đối với công ty. Xây dựng một phong cách giao tiếp chuẩn cho toàn thể công nhân viên là một tiêu chí vô cùng quan trọng trong việc xây dựng văn hoá và thương hiệu cho doanh nghiệp.
Nhiều tổ chức, doanh nghiệp đã sử dụng những câu chữ đặc biệt, khẩu hiệu, ví von, ẩn dụ hay một sắc thái ngôn ngữ để truyền tải một ý nghĩa cụ thể đến nhân viên của mình và những người hữu quan. Khẩu hiệu là hình thức dễ nhập tâm và được không chỉ nhân viên mà cả khách hàng và nhiều người khác luôn nhắc đến. Với nhiệm vụ phải đi vào tiềm thức của khách hàng, khẩu hiệu cần nêu bật được những gì mà doanh nghiệp muốn nhắn nhủ hay nói cách khác là phải mang trong mình thông điệp ấn tượng. Khẩu hiệu thường rất ngắn gọn, hay sử dụng các ngôn từ đơn giản, dễ nhớ và nhấn mạnh vào lợi ích sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Khẩu hiệu là cách diễn đạt cô đọng nhất của triết lý hoạt động, kinh doanh của một tổ chức, một công ty. Vì vậy, chúng cần được liên hệ với bản tuyên bố sứ mệnh của tổ chức, công ty để hiểu được ý nghĩa tiềm ẩn của chúng.
2.1.5. Giai thoại
Giai thoại là những câu chuyện về quá trình hình thành và phát triển của doanh nghiệp, về những năm tháng gian khổ và vinh quang của doanh nghiệp hay về một nhân vật anh hùng của doanh nghiệp (nhất là hình tượng người sáng lập, thủ lĩnh). Các câu chuyện này thường được thêu dệt từ những sự kiện có thực được mọi thành viên trong tổ chức cùng chia sẻ và nhắc lại với những thành viên mới. Nhiều mẩu chuyện kể về những nhân vật có công trong quá trình xây dựng và phát triển doanh nghiệp như những mẫu hình lý
tưởng về chuẩn mực đạo đức và giá trị VHDN. Một số khác có thể trở thành biểu tượng chứa đựng những giá trị và niềm tin trong tổ chức và đôi khi không được chứng minh bằng các bằng chứng thực tế. Các mẩu chuyện có tác dụng duy trì sức sống cho các giá trị ban đầu của doanh nghiệp, truyền đạt, nuôi dưỡng những giá trị tốt đẹp, các nguyên tắc chung và giúp đoàn kết, thống nhất về nhận thức của tất cả mọi thành viên.
2.2. Những giá trị được chấp nhận
Các giá trị được chấp nhận bao gồm những chiến lược, mục tiêu và các triết lý kinh doanh của doanh nghiệp trong quá trình giải quyết các vấn đề để thích ứng với bên ngoài và hội nhập vào bên trong tổ chức. Những người khởi xướng, sáng lập ra doanh nghiệp và nhà lãnh đạo kế cận khi đề ra các quy định, nguyên tắc, triết lý, tư tưởng đều yêu cầu mọi thành viên phải tuần theo. Trải qua thời gian áp dụng, các nguyên tắc, triết lý, tư tưởng đó sẽ trở thành niềm tin, thông lệ và quy tắc ứng xử chung mà mọi thành viên đều thấm nhuần, tức là trở thành “những giá trị được chấp nhận”.
Những giá trị được chấp nhận cũng có tính hữu hình vì người ta có thể nhận biết và diễn đạt chúng một cách rõ ràng và chính xác. Chúng thực hiện chức năng hướng dẫn cho các thành viên trong doanh nghiệp cách thức đối phó với một tình huống cơ bản và rèn luyện cách ứng xử cho các thành viên mới trong môi trường doanh nghiệp. Hệ thống các giá trị này trở thành hiện thân của triết lý kinh doanh và là kim chỉ nam cho doanh nghiệp khi phải đối phó với những vấn đề khó khăn.
Hình thức thể hiện điển hình nhất của những giá trị được chấp nhận là triết lý kinh doanh. Triết lý kinh doanh là những giá trị, nguyên tắc mang tính định hướng cho hoạt động, hành vi của các thành viên trong doanh nghiệp, nhằm thúc đẩy doanh nghiệp đạt hiệu quả cao trong sản xuất - kinh doanh.
Triết lý kinh doanh vạch ra mục tiêu, phương thức thực hiện và các giá trị đạo đức cho mọi thành viên, từ đó tạo nên một phong thái văn hoá đặc thù của doanh nghiệp. Triết lý kinh doanh thể hiện quan điểm riêng biệt của từng doanh nghiệp, được xây dựng nên bởi những người sáng lập doanh nghiệp, đồng thời được bổ sung, đúc kết trong quá trình phát triển và trưởng thành của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp khi xây dựng triết lý kinh doanh đều có một mục đích: nó sẽ là thông điệp giúp đỡ các nhân viên trong toàn doanh nghiệp, nhắc nhở họ về những thái độ cần có và những hành động cần làm.
2.2.1. Vai trò của triết lý kinh doanh
Triết lý kinh doanh là cốt lõi của văn hoá doanh nghiệp, tạo ra phương thức phát triển bền vững. VHDN được cấu thành bởi nhiều yếu tố trong đó hạt nhân là các triết lý và các giá trị. Triết lý kinh doanh là cơ sở để bảo tồn phong thái và bản sắc văn hoá của doanh nghiệp. Một khi đã phát huy được tác dụng thì triết lý rất ít thay đổi, nó trở thành ý thức lý luận và hệ tư tưởng chung của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, triết lý kinh doanh còn là công cụ định hướng và quản lý chiến lược của doanh nghiệp. Môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp vốn phức tạp và biến đổi không ngừng, để tồn tại được, doanh nghiệp cần có tính mềm dẻo, linh hoạt và hơn thế nữa, muốn phát triển được lâu dài nó cần thêm năng lực chủ động kinh doanh với sự khôn ngoan, sáng suốt. Đối với cán bộ quản trị, triết lý doanh nghiệp là một văn bản pháp lý và là cơ sở văn hoá để họ có thể đưa ra các quyết định quản lý quan trọng, có tính chiến lược và phù hợp với văn hoá doanh nghiệp.
Triết lý kinh doanh còn là một phương tiện để giáo dục và phát triển nguồn nhân lực của doanh nghiệp, đó là bài học đầu tiên cho mọi thành viên mới của công ty. Nếu được tổ chức một cách trang trọng và thích hợp, triết lý kinh doanh sẽ truyền được lý tưởng và giá trị của cả một cộng đồng tới từng
thành viên, tạo ra không chỉ sự di truyền văn hoá trong doanh nghiệp mà con đem lại sứ mệnh và các chuẩn mực chung cho nhân viên. Vai trò của triết lý kinh doanh có thể so sánh với bất kì một nguồn lực nào khác của doanh nghiệp như vốn, tài sản hoặc công nghệ. Nếu thiếu một triết lý kinh doanh có giá trị thì chẳng những tương lai lâu dài của doanh nghiệp có độ bất định cao mà ngay trong việc lập kế hoạch chiến lược và dự án kinh doanh cũng rất khó khăn vì thiếu một quan điểm chung về phát triển giữa các tầng lớp, bộ phận của tổ chức doanh nghiệp để định hướng cho các thành viên.
2.2.2. Những quan niệm chung
Trong bất cứ cấp độ văn hoá nào cũng đều có các quan niệm chung, được hình thành và tồn tại trong một thời gian dài, chúng ăn sâu vào tâm lý của hầu hết các thành viên trong nền văn hoá đó. Những quan niệm chung là những lý tưởng, niềm tin và nhận thức, phần nhiều bắt nguồn từ văn hoá dân tộc và mặc nhiên được công nhận trong doanh nghiệp.
Để hình thành được các quan niệm chung, một cộng đồng văn hoá, ở bất kỳ cấp độ nào, đều phải trải qua quá trình hoạt động, va chạm và xử lý nhiều tình huống thực tiễn. Chính vì vậy, một khi đã hình thành, các quan niệm chung sẽ rất khó bị thay đổi bởi đó là một phần trong tính cách, lối làm việc của cả một tập thể. Khi trong tổ chức đã hình thành được quan niệm chung, tức là các thành viên cùng nhau chia sẻ và hành động theo đúng quan niệm chung đó, họ sẽ rất khó chấp nhận những hành vi đi ngược lại.
Lý tưởng là những động lực, ý nghĩa, giá trị cao cả, căn bản, sâu sắc giúp con người cảm thông chia sẻ, và dẫn dắt con người trong nhận thức, cảm nhận và xúc động trước sự vật, hiện tượng. Lý tưởng cho phép các thành viên trong doanh nghiệp thống nhất với nhau trong cách lý giải các sự vật, hiện tượng xung quanh họ, giúp họ xác định được cái gì là đúng, cái gì là sai, định
hình trong đầu họ rằng cái gì được cho là quan trọng, cái gì được khuyến khích cần phát huy, tạo ra một đích đến chung cho toàn doanh nghiệp. Tóm lại, lý tưởng thể hiện định hướng căn bản, thống nhất hoá các phản ứng của mọi thành viên trong doanh nghiệp trước các sự vật, hiện tượng. Cụ thể hơn, lý tưởng của một doanh nghiệp được ẩn chứa trong triết lý kinh doanh, mục đích kinh doanh và phương châm hành động của doanh nghiệp đó
Niềm tin là khái niệm đề cập đến việc mọi người cho rằng thế nào là đúng, thế nào là sai. Nó khác lý tưởng ở chỗ được hình thành một cách có ý thức, được xét đoán và rõ ràng. Xây dựng niềm tin trong doanh nghiệp đòi hỏi các cấp quản lý phải có trình độ kiến thức và kinh nghiệm, từ đó, niềm tin của người lãnh đạo sẽ dần dần được chuyển hoá thành niềm tin của tập thể thông qua những giá trị. Một khi hoạt động nào đó trở thành thói quen và tỏ ra hữu hiệu, chúng sẽ chuyển hoá dần thành niềm tin, dần dần chúng có thể trở thành một phần lý tưởng của những người trong tổ chức này.
Giá trị, về bản chất, là khái niệm liên quan đến chuẩn mực đạo đức và cho biết con người cho rằng họ cần phải làm gì. Đó là quan niệm về nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, về sự bình đẳng, sự thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Đây là các yếu tố thuộc về văn hoá dân tộc, trong hành vi ứng xử, chúng được coi như điều đương nhiên trong các mối quan hệ của doanh nghiệp. Xã hội cũng như doanh nghiệp luôn tồn tại các hành động tốt - xấu, vấn đề là các doanh nghiệp làm thế nào để thể chế hoá, hình thành và xây dựng được một hệ thống các chuẩn mực đạo đức chính thức cho mình.
Thái độ là chất kết dính niềm tin và giá trị thông qua tình cảm. Thái độ chính là thói quen tư duy theo kinh nghiệm, là lối phản ứng theo một cách thức nhất quán, mong muốn hoặc không mong muốn đối với sự vật, hiện tượng xảy ra xung quanh.