Một Số Kiến Nghị Cụ Thể Với Công Tác Xây Dựng Đảng Của Việt Nam

dân làm trung tâm, bám sát các vấn đề liên quan trực tiếp nhất, được nhân dân quan tâm nhất, thiết thực nhất đối với quần chúng nhân dân; Đảm bảo quyền tham gia quyết sách dân chủ, quản lý dân chủ và giám sát dân chủ theo pháp luật của quần chúng nhân dân. Tập Cận Bình đã chỉ ra: ―Nếu quản đảng không chặt, trị đảng không nghiêm, không giải quyết được những vấn đề nổi cộm mà nhân dân phản ánh quyết liệt, thì đảng sớm muộn cũng sẽ mất tư cách cầm quyền‖ [169, tr.349]. ĐCS Trung Quốc xác định tiếp tục xây dựng và kiện toàn thể chế giám sát của đảng và nhà nước, tăng cường cơ chế giám sát trên diện rộng đối với cơ quan đảng và nhà nước trong điều kiện cầm quyền lâu dài, góp phần để đảng tự làm trong sạch chính mình, hoàn thiện và đổi mới mình, phòng chống nguy cơ đảng bị biến chất, nhà nước đổi màu và cán bộ hủ hoá.

Thứ ba, tăng cường giám sát quyền lực và thúc đẩy xây dựng kiện toàn cơ chế chống tham nhũng.

Vấn đề chống tham nhũng rất phức tạp, nó là hiện tượng mang tính lịch sử và mang tính toàn cầu chứ không chỉ riêng Trung Quốc. Mục tiêu hình thành cơ chế bảo đảm ―không dám tham nhũng, không thể tham nhũng và không muốn tham nhũng‖ là điểm then chốt trong vấn đề chống tham nhũng của ĐCS Trung Quốc từ Đại hội XVIII đến nay, là biện pháp quan trọng để xây dựng đảng phong liêm khiết và đấu tranh chống tham nhũng mà Hội nghị Trung ương 4 khoá XVIII ĐCS Trung Quốc đề ra. ĐCS Trung Quốc đã chú trọng cải cách công tác giám sát, coi việc đi sâu thúc đẩy trừng trị và phòng ngừa tham nhũng là nhiệm vụ chính trị quan trọng. Phong trào chống tham nhũng của ĐCS Trung Quốc từ Đại hội XVIII đến nay đã đi vào chiều sâu khiến hàng ngàn quan chức các cấp lớn nhỏ đều bị điều tra, xử lý. Bên cạnh việc tích cực thúc đẩy xây dựng và hoàn thiện cơ chế chống tham nhũng, làm trong sạch đảng với tinh thần quyết tâm cao “đả hổ, diệt ruồi, săn cáo”, ĐCS Trung Quốc đã có các biện pháp hữu hiệu nhằm đi sâu cải cách công tác giám sát, đặc biệt là giám sát quyền lực. Họ cho rằng, có ít nhất bốn biện pháp để giám sát và ràng buộc quyền lực, đó là: Lấy pháp luật để ràng buộc quyền lực; lấy đạo đức để ràng buộc quyền lực; lấy quyền lực để ràng buộc quyền lực; lấy nhân dân để ràng buộc quyền lực. Bốn biện pháp này có vai trò tương hỗ với nhau, trong đó, dùng

pháp luật ràng buộc quyền lực là căn bản, dùng quyền lực ràng buộc quyền lực, lấy nhân dân ràng buộc quyền lực chỉ có hiệu quả khi được khẳng định thông qua hình thức pháp luật. Do đó, để việc giám sát và ràng buộc quyền lực có hiệu quả nhất cần chú trọng vấn đề then chốt là xây dựng vững chắc phòng tuyến pháp luật, phòng tuyến đạo đức, phòng tuyến kỷ luật và phòng tuyến chính sách; Siết chặt quản lý quyền lực bằng thể chế, để quyền lực chỉ có thể thực thi, sử dụng minh bạch trong khuôn khổ của thể chế, hình thành cơ chế trừng trị, răn đe không dám tham nhũng, cơ chế phòng ngừa không thể tham nhũng, cơ chế đảm bảo không dễ tham nhũng.

Nhìn chung, các biện pháp, cách làm mới để tập trung tăng cường xây dựng đảng của ĐCS Trung Quốc từ sau Đại hội XVIII là r ràng và đúng đắn, nhưng trong công tác thực hiện quán triệt cụ thể còn cần phải chú ý một số những vấn đề sau: Một là, không ngừng nâng cao hiệu quả. Qui chế tốt, phương châm chính sách và qui định cụ thể đều đúng đắn, nhưng chỉ khi nó được quán triệt một cách triệt để mới thu được hiệu quả như mong đợi. Vì vậy, không những phải nỗ lực trong quá trình ban hành qui chế, xác định phương châm chính sách mà còn cần phải nỗ lực trong việc thực hiện quán triệt các qui chế, phương châm chính sách và việc giám sát chấp hành của tổ chức đảng các cấp, nếu không các qui chế, phương châm chính sách đề ra sẽ mãi chỉ là trên giấy mà thôi. Qui chế và phương châm chính sách không quan trọng ở nhiều hay ít mà là phương châm chính sách hay qui chế có được chấp hành triệt để hay không và có hiệu quả thực tế hay không. Cho nên, khi đưa ra một phương châm chính sách hay xây dựng qui chế cần phải xem xét tới tính chuẩn mực, tính khoa học và tính khả thi. Làm sao có thể hạn chế tối đa những trở ngại khó khăn khi thực hiện thì mới có thể có được hiệu quả thực sự như mong đợi. Hai là, xây dựng kiện toàn cơ chế kiểm tra giám sát song song trong quá trình quán triệt thực hiện qui chế và phương châm chính sách, để thấy được hiệu quả trong mỗi giai đoạn, mỗi bước thực hiện. Việc kiểm tra giám sát không chỉ nhìn vào kết quả thực hiện, mà phải nhìn vào xuyên suốt cả quá trình để tránh tình trạng đối phó khi kiểm tra bất chợt, hoặc làm tổng kết vì sẽ dễ phát sinh hiện tượng ngụy tạo báo cáo, chỉ làm qua loa hình thức, kiểm tra hời hợt rồi đánh giá là đều đạt. Tăng cường kiểm tra giám sát còn cần phải kiện toàn xây dựng chế độ trách nhiệm chức vụ một cách nghiêm khắc. Ba là, tăng

cường xây dựng chế độ cụ thể và đồng bộ. Để có thể thực sự đảm bảo được hiệu quả thực tiễn như mong đợi cần phải tiến hành cụ thể hóa và phân loại các phương châm, chính sách. Trong đó, đối với những nội dung mang tính căn bản, tính toàn cục và lâu dài, trên cơ sở tổng kết và đánh giá kinh nghiệm sẽ đi vào tầng sâu hơn một cách khoa học, thậm chí đưa vào Điều lệ đảng, ai vi phạm sẽ bị xử lý. Đối với những nội dung đề cập đến hiện tượng tham nhũng, ngoài việc giáo dục và khuyến khích đấu tranh phòng, chống tham nhũng nên ưu hóa thành qui định, qui chế r ràng. Như các qui định về sử dụng xe công, sử dụng công khoản để tiếp khách hay đi nước ngoài, các qui định công khai tài sản của cá nhân và gia đình, v.v... Quan trọng hơn là không chỉ làm r các qui định mà còn đưa ra biện pháp xử lý thích đáng nếu vi phạm, chỉ có như vậy, các qui định mới thực sự phát huy sức mạnh làm cho sợ.

Ngoài ra, điểm đáng chú ý từ sau Đại hội XVIII của ĐCS Trung Quốc là nhấn mạnh hơn tính nhân dân trong công tác xây dựng đảng, kiên trì quản lý đảng nghiêm minh toàn diện. Điều này đã được thể hiện qua những chủ trương, đường lối, chính sách của ĐCS Trung Quốc từ đó đến nay. Qua đó, thể hiện sự nắm vững và tuân thủ qui luật cầm quyền của ĐCS Trung Quốc, mà điểm quan trọng đầu tiên trong quy luật cầm quyền là Đảng cầm quyền phải hoạt động trong phạm vi Hiến pháp và pháp luật và phải có cơ sở pháp lý cầm quyền. Cơ sở pháp lý căn bản nhất là sự công nhận của nhân dân đối với Đảng cầm quyền. Tuy nhiên, tất cả những đường lối, chủ trương, chính sách có cao siêu, tốt đẹp đến mấy, nhưng nếu như trong thực tiễn không mang lại kết quả nhất định cho người dân thì niềm tin sẽ bị xói mòn, tính chính danh của Đảng cầm quyền sẽ bị ảnh hưởng và đảng có thể bị mất vai trò cầm quyền. Hiện nay, sự nghiệp phát triển của đảng và của đất nước Trung Quốc đang bước vào giai đoạn quan trọng mới, ĐCS Trung Quốc xác định cần phải kiên trì sự lãnh đạo của Trung ương đảng do Tập Cận Bình làm hạt nhân để thực hiện mục tiêu phấn đấu ―hai lần 100 năm‖ và phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa. Tuy nhiên, ĐCS Trung Quốc ngoài một số thành công trong công tác xây dựng đảng thời gian qua, đã có những động thái mang tính tuyệt đối hóa quyền lực của Đảng, đặc biệt là Trung ương Đảng do Tập Cận Bình làm hạt nhân. Điều này rất dễ dẫn đến tình trạng chuyên quyền độc đoán, thiếu dân chủ và càng khó có

thể đảm bảo cho quyền lực được nhân dân giao phó không bị biến thành quyền lực riêng của các cá nhân hoặc một nhóm người có đặc quyền đặc lợi. Vì vậy, ĐCS Trung Quốc cần đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng đảng theo đúng phương châm cầm quyền khoa học, dân chủ và theo pháp luật để tiếp tục củng cố, giữ vững tính chính danh là Đảng cầm quyền của mình.

4.2.2 Một số kiến nghị cụ thể với công tác xây dựng đảng của Việt Nam

ĐCS Việt Nam trong quá trình xây dựng và phát triển đã không ngừng đổi mới và tích luỹ kinh nghiệm quí báu về xây dựng đảng. Công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng đã được đẩy mạnh một cách đồng bộ, quyết liệt và thu được hiệu quả rò rệt, không ngừng nâng cao năng lực, trình độ cầm quyền của mình. Tuy nhiên, công tác xây dựng đảng cũng còn nhiều hạn chế, khuyết điểm, thể hiện trên các mặt, các nội dung, các khâu công tác. Cụ thể là: Việc dự báo, hoạch định, lãnh đạo tổ chức thực hiện các nghị quyết, chính sách của đảng, nhà nước chưa kịp thời, chưa đồng bộ, chưa hiệu quả; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít các tổ chức còn thấp, có nơi mất sức chiến đấu; công tác tư tưởng có nơi có lúc chưa được coi trọng dẫn đến việc quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên ở một số nơi chưa được quan tâm thường xuyên; chất lượng sinh hoạt đảng, tính chiến đấu trong tự phê bình và phê bình còn yếu; tổ chức bộ máy của đảng và hệ thống chính trị còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, hiệu quả hoạt động chưa cao; công tác cán bộ có một số vấn đề chưa hợp lý; công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng và công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí chưa có chuyển biến rò rệt, v.v... [12, tr.45]. Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên của công tác xây dựng đảng làm suy giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với đảng, nhà nước và chế độ. Đặc biệt, trong điều kiện mới hiện nay, nguy cơ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, xa rời quần chúng nhân dân diễn ra rất tinh vi, phức tạp và ngày càng trở nên nghiêm trọng. Sự suy thoái, biến chất không chỉ diễn ra riêng lẻ và đối với những đảng viên thường, mà có nơi, có lúc đã trở thành số đông có tính chất tập thể, thậm chí có cả một tổ chức, một cấp uỷ và xảy ra đối với cả một số cán bộ có trình độ cao, có những người giữ chức vụ chủ chốt trong bộ máy của Đảng hoặc cơ quan quản lý của Nhà nước. Đây là nguy cơ ―diễn biến bên

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 215 trang tài liệu này.

trong‖ đặc biệt nguy hại không thể coi thường [209]. Văn kiện Đại hội lần thứ XIII ĐCS Việt Nam đã nêu những nhiệm vụ những nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp đột phá trong nhiệm kỳ Đại hội XIII, đó là: Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; Xây dựng tổ chức bộ máy của cả hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Đẩy mạnh hoàn thiện về thể chế công tác xây dựng đảng; Siết chặt kỷ luật, kỷ cương; Kiên quyết đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với kiểm tra giám sát quyền lực [13, tr.256 - 257]. Để thực hiện tốt các nhiệm vụ và giải pháp then chốt này, yêu cầu đặt ra là tất cả các tổ chức đảng, từ Trung ương đến cơ sở và toàn thể các cán bộ, đảng viên phải quán triệt thực hiện tốt các nội dung xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, lý luận, đạo đức, tổ chức, công tác kiểm tra giám sát và tích cực đổi mới phương thức lãnh đạo, bởi các nội dung này có quan hệ mật thiết với nhau, tạo nên bản chất cách mạng, tính khoa học và sức chiến đấu của Đảng.

ĐCS Việt Nam có thể nhìn vào những thành tựu của ĐCS Trung Quốc đạt được từ sau Đại hội XVIII và những hạn chế tồn tại trong công tác xây dựng đảng mà hiện nay ĐCS Trung Quốc đang cần sớm phải giải quyết để tiếp tục đi sâu nghiên cứu, sau đó, đưa ra những chủ trương, đường lối đổi mới đối với công tác xây dựng đảng phù hợp với tình hình thực tế trong nước. Trước mắt, Đảng ta có thể nên thực hiện tốt một số các nhiệm vụ như sau:

Vấn đề xây dựng đảng cộng sản Trung Quốc từ sau đại hội XVIII và gợi mở đối với Việt Nam - 21

Thứ nhất, tăng cường xây dựng tư tưởng chính trị, chỉnh đốn tác phong của cán bộ Đảng viên, đặc biệt đối với các cán bộ lãnh đạo.

Tư tưởng dẫn dắt hành động, chỉ có xây dựng tốt tư tưởng chính trị mới có thể phát huy vai trò đi đầu của đội ngũ lãnh đạo, tăng cường tính tập trung, tính sáng tạo và tính chiến đấu, thúc đẩy xây dựng toàn bộ đội ngũ cán bộ lãnh đạo đổi mới tư tưởng tác phong, nâng cao tố chất năng lực, nghiêm khắc giám sát quản lý, nỗ lực xây dựng đội ngũ lãnh đạo các cấp trở thành tập thể lãnh đạo vững mạnh, chính trị kiên định, sáng tạo trong công tác, đoàn kết đồng lòng, trong sạch liêm chính. Do

đó, tổ chức đảng các cấp cần tăng cường bồi dưỡng lý luận cho cán bộ đảng viên, đề ra các biện pháp mang tính khả thi để thực hiện quán triệt yêu cầu của Trung ương. Đặc biệt cần phải bồi dưỡng giáo dục mang tính trọng điểm đối với các cán bộ. Trường đảng các cấp tổ chức lớp học chuyên đề, các lớp học và thảo luận nghiên cứu lý luận hay các hoạt động học tập chuyên môn, v.v... Bên cạnh đó, chú trọng rèn luyện thực tiễn đối với cán bộ đảng viên, cần phải kiên định tăng cường việc học tập, nghiên cứu và vận dụng sáng tạo, phát triển lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nắm vững, không ngừng bổ sung, phát triển Cương lĩnh, đường lối đổi mới của Đảng. Cần tiếp tục đẩy mạnh phong trào học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với nhiều hình thức phong phú; coi đó là công việc thường xuyên và không bao giờ ngưng nghỉ của các tổ chức đảng, các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, địa phương, đơn vị, gắn với chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Trong chỉnh đốn tác phong vừa phải chú ý đến tác phong tổ chức, tác phong làm việc, tác phong sinh hoạt, tác phong học tập. Tác phong tổ chức là phục tùng sự sắp xếp của tổ chức, tuân thủ nghiêm bí mật của tổ chức, tuân thủ kỷ luật và qui định về hành vi của tổ chức, duy trì sự nhất trí cao độ với Trung ương đảng; tác phong làm việc chính là trong công tác cần phải xoay quanh việc duy trì mối quan hệ máu thịt với quần chúng nhân dân kiên trì đường lối quần chúng; tác phong trong sinh hoạt chính là trong cuộc sống đời thường lúc nào cũng giữ gìn kỷ luật của đảng, kỷ luật của tổ chức, biết giữ mình không được buông lỏng kỷ luật trong mọi hoàn cảnh; tác phong học tập là cần phải thực hiện tác phong tốt trong học tập, không ngừng nâng cao trình độ và quan điểm khoa học. Toàn đảng cần phải kiên định chấp hành đường lối chính trị của đảng, nghiêm khắc tuân thủ kỷ luật chính trị, nguyên tắc chính trị coi đó là yêu cầu căn bản và nguyên tắc giới hạn của tổ chức đảng và đảng viên; Tuân thủ Điều lệ đảng, qui định của đảng để ràng buộc chính mình, kiên trì sự lãnh đạo của Trung ương đảng; Nâng cao tính quyền uy của kỷ luật đảng, tăng cường giáo dục ý thức kỷ luật, làm cho toàn đảng tự giác chấp hành kỷ luật đảng.

Để cán bộ đảng viên rèn luyện thực tiễn chính là yêu cầu trong giáo dục bồi dưỡng cán bộ. Cán bộ đảng viên cần phải thâm nhập vào cơ sở, đi sâu vào quần chúng, đặc biệt là cán bộ trẻ phải đi tiên phong cho quần chúng để kiểm nghiệm, không ngừng học tập rèn luyện trong thực tiễn. Đảng uỷ và tổ chức đảng các cấp cần phải nghiêm khắc trong hoạt động rèn luyện thực tiễn của cán bộ đảng viên, để họ không chỉ học tập từ nhân dân, tăng cường mối quan hệ mật thiết với dân mà còn nắm vững tình hình ở cơ sở, hiểu được nhu cầu của nhân dân để có thể trở thành người cán bộ tốt, lãnh đạo tốt. Thực hiện nghiêm túc trong sinh hoạt chính trị của đảng. Hiện nay, sinh hoạt chính trị ở một số tổ chức và ban ngành địa phương có hiện tượng rệu rạo, tồn tại chỉ là hình thức, thiếu sức chiến đấu, thiếu nguyên tắc, công tác tự phê bình và phê bình còn yếu, sinh hoạt chính trị trong đảng không phát huy được vai trò dẫn dắt về giáo dục tính đảng và giáo dục tư tưởng cho cán bộ đảng viên, v.v... Tóm lại, các cán bộ đảng viên từ cán bộ cấp cao trở xuống cần phải kiên trì tăng cường xây dựng tác phong, kiên trì và phát huy truyền thống, tác phong tốt của đảng để đảng tốt lên một cách toàn diện, đảm bảo đảng luôn cùng nhịp thở, cùng vận mệnh, đồng lòng với nhân dân.

Thứ hai, tăng cường đổi mới mạnh mẽ công tác kiểm tra, giám sát quyền lực, quyết tâm đấu tranh chống tham nhũng.

Tham nhũng có thể nằm ở bất cứ quốc gia và thể chế chính trị nào, nhưng r ràng ở những thể chế chính trị mà quyền lực không được kiểm soát chặt chẽ hoặc không có cơ chế kiểm soát quyền lực thì mức độ tham nhũng nhiều hơn, phổ biến hơn. Điểm yếu thứ nhất của Việt Nam là việc kiểm soát quyền lực rất lỏng lẻo, dẫn đến quyền lực bị lạm dụng. Thứ hai, cũng quan trọng không kém, là cơ chế của ta chưa có giám sát, kiểm tra được việc sử dụng quyền lực, đặc biệt là những người giữ vị trí cao nhất. Cơ chế còn nhiều khiếm khuyết, chính sách, qui định còn nhiều sơ hở nên để xảy ra tham nhũng trong nhiều lĩnh vực. Thậm chí, còn để xảy ra tham nhũng ngay tại các cơ quan có chức năng chống tham nhũng và các cơ quan bảo vệ pháp luật, làm ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng và làm giảm niềm tin của nhân dân đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật cũng như niềm tin đối với Đảng và Nhà nước. Các vụ tham nhũng được phát

hiện, điều tra, truy tố, xét xử cũng chưa phản ánh đúng thực trạng về tình hình tham nhũng. Các trường hợp phát hiện yếu tố tham nhũng, lợi dụng trong các vụ án kinh tế còn ít và chưa phản ánh đúng bản chất, động cơ, mục đích của người phạm tội. Do đó, chúng ta phải rà soát lại xem cơ chế, chính sách, quy định của pháp luật cho những lĩnh vực có liên quan, việc gì là đúng và phù hợp, vấn đề gì bị sơ hở và dễ bị lợi dụng. Đồng thời, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát phải được tiến hành thường xuyên, phát hiện sớm vấn đề để chấn chỉnh kịp thời và dứt điểm những sai phạm ở giai đoạn nguy cơ, không để đến khi sự việc xảy ra nghiêm trọng mới phát hiện và xử lý. Xử lý nghiêm tội phạm tham nhũng cũng là một biện pháp hữu hiệu mang tính răn đe rất tốt, nhưng sẽ tốt hơn nếu chúng ta biết kết hợp giữa răn đe trước, phòng ngừa sau. Do đó, chúng ta phải coi những biện pháp phòng ngừa ngay từ ban đầu, từ gốc rễ vấn đề có thể nảy sinh tham nhũng là giải pháp hiệu quả căn cơ lâu dài.

Vấn đề cấp thiết là chúng ta phải tăng cường kiện toàn cơ chế chống tham nhũng, nâng cao chức năng và hoạt động của cơ quan chống tham nhũng, cơ quan kiểm tra kỷ luật các cấp, hình thành chế độ trách nhiệm trong phòng chống tham nhũng. Nghiêm túc thực hiện chế độ báo cáo kê khai tài sản của cán bộ lãnh đạo, cần thiết có thể công khai báo cáo, qui định chặt chẽ để tránh việc né tránh trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo, đề phòng hạn chế nguy cơ tham nhũng, từng bước dần hoàn thiện hệ thống cơ chế phòng chống và trừng trị tham nhũng. Vận dụng cơ chế kiểm tra, giám sát trong đảng kết hợp với sự giám sát của quần chúng, làm cho tất cả các việc làm của cán bộ lãnh đạo chịu sự giám sát của đảng và quần chúng nhân dân. Đồng thời, chú trọng vai trò giám sát của mạng internet và dư luận để các hành vi tham nhũng, vi phạm pháp luật và kỷ cương của cán bộ lãnh đạo khó có thể thoát tội, thực hiện cơ chế hoá, thể chế hoá công tác chống tham nhũng một cách khoa học, đảm bảo tính pháp lý. Giám sát trong đảng phải bao gồm tất cả cơ quan tổ chức từ Trung ương tới địa phương và có sự kết nối từ trên xuống dưới, giám sát lẫn nhau và đều phải có trách nhiệm, giám sát không chặt sẽ bị truy cứu trách nhiệm, thúc đẩy việc dần hoàn thiện cơ chế giám sát. Các ban ngành, tổ chức, đơn vị trọng điểm và cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp đều là những đối tượng giám sát trọng điểm.

Xem tất cả 215 trang.

Ngày đăng: 09/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí