Liên quan đến việc xác định năng lực giao kết hợp đồng của thương nhân, pháp luật Việt nam quy định thương nhân phải có đủ năng lực hành vi giao kết hợp đồng. Những trường hợp ký kết hợp đồng với người bị hạn chế hoặc không có năng lực hành vi dân sự đều có thể bị tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Tuy nhiên không nên vì thế mà quy định như: « Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu » , điều 133 BLDS 2005. Để quy định theo hướng mở hơn nhưng luôn đảm bảo yếu tố tự nguyện và trung thực trong ký HĐMBHHQT, nên quy định như sau: « Nếu tại thời điểm ký kết HĐMBHHQT mà một bên trong hợp đồng tự đặt mình vào tình trạng bị hạn chế năng lực hành vi hoặc không nhận thức được hành vi ký kết hợp đồng nhưng vẫn tiến hành ký kết hợp đồng và bên kia đã biết về tình trạng đó nhưng vẫn đồng ý ký kết hợp đồng thì không được dựa vào lý do này tuyên bố hợp đồng vô hiệu ».
Về xác định tư cách người đại diện ký HĐMBHH là hợp pháp: theo quy định của BLDS 2005 và LTM 2005 thì người đại diện hợp pháp phải được ủy quyền hợp pháp trong phạm vi ủy quyền và bằng văn bản. Tuy nhiên để phù hợp hơn với Luật pháp quốc tế, nên chăng không cần phải quy định bắt buộc ủy quyền ký kết hợp đồng bằng văn bản mà chỉ cần trong mọi trường hợp ủy quyền đó, bên ủy quyền đã thể hiện bằng bất cứ hành vi hay thái độ nào về việc đã chấp nhận người đại diện và phạm vi thẩm quyền đại diện. Vì vậy không phải mọi trường hợp ký hợp đồng vượt quá thẩm quyền đại diện đều bị vô hiệu.
Thứ ba, việc xác định yếu tố nhầm lẫn trong giao kết hợp đồng cần được định nghĩa đầy đủ hơn như trong quy định Bộ nguyên tắc Unidroit để tránh các trường hợp lợi dụng yếu tố này tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Cụ thể là: không nên viện dẫn vô hiệu do nhầm lẫn khi: a) Nhầm lẫn xuất phát từ lỗi nghiêm trọng của bên bị nhầm lẫn; hoặc b) Nhầm lẫn liên quan đến một lĩnh vực mà ở đó nguy cơ nhầm lẫn do bên bị nhầm lẫn chịu, hoặc đặt trong hoàn cảnh đó nhầm lẫn cần phải do người này chịu”. Như vậy cần bổ sung: nếu một bên trong hợp đồng cố ý gây nhầm lẫn cho bên kia hoặc tự mình là nguyên nhân gây ra nhầm lẫn thì không thể lấy lý do nhầm lẫn để tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
Chỉ quy định trường hợp vô hiệu do nhầm lẫn khi sự nhầm lẫn phải là nghiêm trọng (yếu tố nghiêm trọng cả về khách quan và chủ quan) mà một người bình thường trong các tình huống tương tự đã không giao kết hợp đồng hoặc chỉ giao kết với các điều kiện hoàn toàn khác thì khi đó nhầm lẫn mới là nghiêm trọng (khác biệt rõ ràng với nhầm lẫn không thích đáng). Đồng thời yếu tố nhầm lẫn nghiêm trọng phải kết hợp với 04 điều kiện khác thì bên bị nhầm lẫn mới có quyền tuyên bố hợp đồng vô hiệu: một là cả hai bên đều bị nhầm lẫn; hai là: bên không nhầm lẫn đã là nguyên nhân gây ra nhầm lẫn cho bên kia là do vô ý (nếu cố ý sẽ trở thành lừa dối); ba là bên không nhầm lẫn đã biết hoặc phải biết về sự tồn tại của nhầm lẫn nhưng vẫn ký hợp đồng ngược lại với nguyên tắc trung thực và thiện chí; bốn là bên không nhầm lẫn đã không hành động hợp lý vào thời điểm tuyên bố hợp đồng vô hiệu, tức là không thông báo sự nhầm lẫn cho bên bị nhầm lẫn trong một thời gian hợp lý để có thể sửa đổi làm không còn tình trạng hợp đồng vô hiệu.
Cuối cùng, các nhà làm luật cũng nên dự liệu các trường hợp nhầm lẫn khác, nếu một trong các bên đã biết hay buộc phải biết về sự nhầm lẫn nhưng vẫn thực hiện trên sự nhầm lẫn đó như chấp nhận thay đổi hay sửa đổi hợp đồng thì không thể tuyên bố hợp đồng vô hiệu vì lý do nhầm lẫn.
Thứ tư, nên chăng bổ sung quy định về việc xác định yếu tố ép buộc phải ký hợp đồng trong tình trạng do lợi ích thái quá đối với một bên trong hợp đồng. Theo đó, một bên có thể tuyên bố hợp đồng hay một trong các điều khoản của hợp đồng vô hiệu vì lý do bị thiệt hại nếu vào thời điểm giao kết, hợp đồng hay một điều khoản hợp đồng đó dành cho bên kia một lợi ích thái quá và không có căn cứ. Tuy nhiên cần xem xét đến: việc mà bên kia đã lợi dụng một cách không chính đáng tình trạng phụ thuộc, tình trạng suy thoái về kinh tế, mức độ khẩn cấp của nhu cầu, sự không dự liệu trước vấn đề, sự không hiểu biết, sự thiếu kinh nghiệm hoặc thiếu khả năng đàm phán của bên thứ nhất; và xem xét đến bản chất và mục đích của hợp đồng là hợp pháp thì theo yêu cầu của bên bị thiệt hại, toà án có thể sửa lại hợp đồng hoặc điều khoản trong hợp đồng nhằm làm cho hợp đồng phù hợp với các yêu cầu của thiện chí và trung thực trong lĩnh vực thương mại đồng
thời được sự đồng ý của bên kia thì lúc này hợp đồng có thể khôi phục được hiệu lực. Với các điều kiện như trên nhưng nếu bên được hưởng lợi ích thái quá đó không chấp thuận sửa đổi hợp đồng thì hợp đồng có thể bị tuyên vô hiệu.
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Áp Dụng Các Quy Định Của Pháp Luật Việt Nam Về Hiệu Lực Của Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hóa Quốc Tế
- Giao Kết Hợp Đồng Điện Tử Là Việc Sử Dụng Thông Điệp Dữ Liệu Để Tiến Hành Một Phần Hoặc Toàn Bộ Giao Dịch Trong Quá Trình Giao Kết Hợp Đồng.
- Yếu Tố Nhầm Lẫn Trong Giao Kết Hợp Đồng Không Được Định Nghĩa Đầy Đủ Như Trong Quy Định Của Bộ Nguyên Tắc Unidroit
- Vấn đề hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam - 14
Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.
Thứ năm, bổ sung quy định đối tượng HĐMBHH không xác định tại thời điểm ký kết HĐMBHHQT hoặc đối tượng của hợp đồng là hàng hóa hình thành trong tương lai và hậu quả pháp lý từng trường hợp. Cũng liên quan đến đối tượng của HĐMBHHQT. Ngoài ra nên cân nhắc áp dụng theo quy định của CISG: trong trường hợp không xác định được giá hợp đồng thì có thể áp dụng thói quen hoặc tập quán thương mại của các bên để xác định và hợp đồng vẫn có thể có hiệu lực pháp luật.
Thứ sáu, bổ sung các quy định về hình thức HĐMBHHQT
Để phù hợp hơn với thông lệ quốc tế, hình thức của HĐMBHHQT nên được quy định theo hướng mở hơn, bằng mọi hình thức thể hiện dưới dạng hành vi thậm chí bằng lời nói hay sự chứng kiến của nhân chứng.
Đặc biệt lưu ý, sự im lặng hay việc tiếp tục thực hiện giao dịch, theo pháp luật của nhiều nước, được coi như một "sự phê chuẩn" đối với giao dịch đó và là một hình thức hợp pháp hoá giao dịch đó ngay cả khi giao dịch ban đầu có khiếm khuyết hay thậm chí trái pháp luật; Tuy nhiên theo tác giả thì không nên quy định im lặng là một sự đồng ý ký kết HĐMBHHQT.
Bổ sung thêm các văn bản hướng dẫn thi hành quy định về hình thức HĐMBHHQT ký kết bằng thông điệp dữ liệu điện tử. Cần có nhiều văn bản chuyên ngành hướng dẫn chi tiết để đảm bảo tính hiệu lực của giao dịch thương mại quốc tế và đặc biệt là đảm bảo bí mật cho thông tin giao dịch. Đối với hình thức giao dịch điện tử trong mua bán hàng hóa quốc tế cần lưu ý khi tiến hành giao dịch thông qua telex, fax hay các phương thức kỹ thuật khác, các bên cần xác nhận lại bằng văn thư chính thức tuân thủ các hình thức yêu cầu như chữ ký, dấu.... hoặc khi có nghi ngờ hay phản đối gì về giá trị pháp lý của giao dịch mà mình đã ký kết thì cần nêu/tuyên bố phản đối trong thời hạn do luật quy định, nếu luật không quy định thời hạn thì phải trong thời hạn hợp lý. Hơn nữa khi ký các hợp đồng này các bên cần kiểm tra
thông tin về đối tượng cần giao dịch: tên, địa chỉ, quốc tịch, hình thức pháp lý; xem website có được bảo mật không; Chỉ nên cung cấp thông tin về thẻ tín dụng ở giai đoạn cuối, khi đã quyết định việc mua hàng; Cuối cùng: lưu giữ, in chứng cứ về quá trình giao dịch: thư xác nhận giao dịch, hợp đồng. Cẩn thận với những email không thiết kế hoặc không cho in các văn bản này.
Các nhà làm luật cũng nên quy định cụ thể hơn về tính hợp pháp và thời điểm có hiệu lực của đề nghị chào hàng và chấp nhận đề nghị chào hàng đối với giao dịch điện tử là hợp đồng mua bán hàng hàng hóa quốc tế.
Điều này có ý nghĩa tránh các trường hợp lợi dụng hình thức quảng bá của trang Web điện tử như một lời chào hàng chung chung, không gửi cho một người hoặc một nhóm người cụ thể trên thư điện tử của mình và khi tham gia vào trang Web, nhiều người bị coi là đương nhiên chấp nhận lời chào hàng đó. Theo thông lệ quốc tế, nên quy định một bức thư được coi là một lời chào hàng nếu nó bao hàm lời đề nghị ký kết một hợp đồng và được gửi đến một người khác hoặc một số người cụ thể, đồng thời khẳng định một cách đầy đủ và thể hiện ý định của người gửi thư sẵn sàng gánh vác trách nhiệm của lời chào hàng đó khi nó được chấp nhận. Một bức thư điện tử phát ra một cách rộng rãi cho nhiều người không được coi là lời chào hàng, trừ trường hợp trong thư đó có những chú thích khác.
Thứ bảy, cần phân biệt rõ các trường hợp Hợp đồng vô hiệu tương đối và hợp đồng vô hiệu tuyệt đối để từ đó xác định hậu quả pháp lý khác nhau. Đồng thời quy định rõ trong các trường hợp đó thì ai là người có quyền yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu, theo đó:
Đối với các hợp đồng có mục đích và nội dung và trái quy định của pháp luật, hoặc vi phạm đạo đức xã hội thì sẽ bị vô hiệu toàn bộ. Việc xác định nội dung của hợp đồng có bị vô hiệu hay không nên căn cứ vào việc xác định sự vi phạm nội dung chính mà có ảnh hưởng đến cơ bản đến tất cả các nội dung khác của hợp đồng. Trong trường hợp này, một trong các bên hoặc bên thứ ba khác có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu vì lý do bảo vệ trật tự công cộng nói chung của xã hội. Cách xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu trong trường hợp này là ai có lỗi phải
chịu trách nhiệm trước pháp luật và thủ tục xử lý tài sản phải theo quy định của việc xử lý vi phạm pháp luật.
Đối với hợp đồng bị vô hiệu một cách tương đối là các trường hợp còn lại do vi phạm nguyên tắc tự nguyện trong giao kết hợp đồng hoặc vi phạm tư cách chủ thể ký kết hợp đồng thì có thể xảy ra nhiều hậu quả pháp lý khác nhau như hợp đồng chỉ bị vô hiệu một phần do một phần điều kiện của hợp đồng bị vô hiệu, các nội dung khác không có liên quan vẫn giữ nguyên hiệu lực. Tuy nhiên cũng có trường hợp hợp đồng xem như bị vô hiệu ở thời điểm ký kết nhưng khi có sự thông báo về điều kiện vô hiệu của hợp đồng các bên chấp nhận sửa đổi điều kiện vô hiệu đó để hợp đồng lại có hiệu lực toàn bộ. Đối với trường hợp hợp đồng bị vô hiệu tương đối thì chỉ nên quy định người có liên quan đến quyền lợi bị xâm hại do rơi vào các điều kiện vô hiệu tương đối này mới có quyền yêu cầu bên kia hủy hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại hoặc yêu cầu tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu để xử lý. Hậu quả pháp lý chung cho hợp đồng vô hiệu tương đối là các bên phải hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận và người nào có lỗi làm cho Hợp đồng vô hiệu phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Cuối cùng, các nhà làm luật nên quy định cụ thể hơn về thời điểm có hiệu lực đối với từng hình thức giao kết của HĐMBHHQT. Theo đó,
Bên cạnh việc quy định thời hạn hiệu lực của đề nghị giao kết giao kết hợp đồng do bên đề nghị giao kết ấn định cũng cần quy định thêm thời hạn bắt đầu của đề nghị giao kết hợp đồng đối với từng hình thức giao kết là: 1) bắt đầu từ khi chào hàng được gửi đi đối với thư, điện tín và 2). Bắt đầu từ khi chào hàng tới nơi người được chào đối với các phương tiện truyền thông tức thời.
Nên sửa đổi hoặc bỏ quy định im lặng có thể được coi là một chấp nhận chào hàng nếu có thỏa thuận vì đây là quy định không đảm bảo tính an toàn cho hoạt động kinh doanh như đã phân tích tại phần những điểm hạn chế trong quy định pháp luật HĐMBHHQT.
Nếu được pháp luật cho phép Hợp đồng mua bán được ký kết bằng lời nói thì cũng phải quy định thêm thời điểm HĐMBHHQT có hiệu lực là thời điểm mà các bên thỏa thuận xong về đối tượng hàng hóa và giá cả của Hợp đồng.
3.3 Kiến nghị cơ quan thực thi pháp luật nâng cao trình độ chuyên ngành về thương mại, hợp đồng mua bán quốc tế để xử lý các tranh chấp về hiệu lực hợp đồng
3.3.1 Gia nhập CISG trong thời gian sớm nhất để thống nhất nguồn luật áp dụng cho mua bán hàng hóa quốc tế giữa các DN Việt Nam và các đối tác nước ngoài.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, việc gia nhập CISG là hết sức cần thiết và có ý nghĩa to lớn đối với các hoạt động ngoại thương nói chung và hoạt động mua bán hàng hoá (xuất nhập khẩu) nói riêng của Việt Nam. Đây là Công ước về mua bán hàng hóa quốc tế đã được nhiều nước tham gia, phê chuẩn, đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các xung đột pháp luật trong thương mại quốc tế và thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển. Luật Thương mại Việt Nam năm 1997 và ngay cả LTM năm 2005 liên quan đến HĐMBHHQT còn bộc lộ nhiều mặt hạn chế và chứa đựng một số điều khoản chưa phù hợp với thực tiễn và yêu cầu của các nhà kinh doanh quốc tế. Điều này đòi hỏi chúng ta phải nhanh chóng có các giải pháp tiến tới gia nhập CISG trong thời gian sớm nhất để thống nhất nguồn luật áp dụng cho mua bán hàng hóa quốc tế giữa các DN Việt Nam và các đối tác nước ngoài. Khi đó các DN Việt Nam và nước ngoài sẽ cùng chung "tiếng nói", cùng chung quan điểm và nhờ đó, các mối quan hệ hợp tác thương mại quốc tế sẽ ngày càng gắn chặt hơn, lâu bền hơn và rộng mở hơn.
Như vậy, Nhà nước cần xây dựng hệ thống thông tin về pháp luật, thị trường của các quốc gia khác, thu thập thông tin về sự thay đổi của thị trường, pháp lý của các quốc gia đó. Các cơ quan đại diện cho Nhà nước ở các thị trường phải trực tiếp nắm bắt thông tin về các doanh nghiệp, pháp lý, thị trường để cung cấp cho doanh nghiệp Việt Nam. Chính những nguồn thông tin này là một kênh quan trọng để doanh nghiệp trong nước phòng tránh, giảm thiểu được rủi ro khi tham gia các hoạt động thương mại quốc tế.
3.3.2 Cập nhật thực tiễn hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế, kinh nghiệm xử lý tranh chấp quốc tế đồng thời nâng cao nghiệp vụ thực thi và bảo vệ pháp luật
Việt Nam không những cần có thể chế pháp lý về HĐMBHHQT thống nhất và đầy đủ mà điều quan trọng là những con người thực thi luật pháp cũng cần phải thường xuyên cập nhật thực tiễn hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế, kinh nghiệm xử lý tranh chấp quốc tế đồng thời nâng cao nghiệp vụ thực thi và bảo vệ pháp luật của bản thân.
Hiện nay việc không thừa nhận án lệ trong các tranh chấp thương mại ở VN có thể làm tăng thêm khó khăn cho các chủ thể tố tụng như các thẩm phán, luật sư và cả các bên đương sự. Điều này đặt ra yêu cầu là công tác tài phán phải biết cách tiếp cận các vụ án có yếu tố nước ngoài qua việc công nhận và cho thi hành tại VN. Phương án sử dụng án lệ có thể được xem như là một nguồn luật bổ sung tuỳ theo mức độ để hoà nhập hệ thống tài phán của VN với hệ thống tài phán quốc tế. Điều này không hề làm giảm sút quyền lực của cơ quan tư pháp nước ta mà trái lại tạo được sự tin tưởng của cộng đồng quốc tế như là một điều kiện quan trọng để các doanh nhân có thể yên tâm về việc lựa chọn tài phán tại VN thay vì phải đưa vụ tranh chấp ra các cơ quan tài phán của nước ngoài. Thực hiện áp dụng án lệ tại VN là một quá trình lâu dài, song hành với tiến trình hội nhập. Trước mắt, Toà án nhân dân tối cao đã hoàn chỉnh và công khai hóa các vụ tranh chấp kinh doanh, thương mại điển hình từ năm 2004, trong đó có các quyết định giám đốc thẩm về các vụ án dân sự, kinh doanh, thương mại. Đây là cách tiến hành theo hướng hình thành và công nhận án lệ. Cần phải thừa nhận những nỗ lực từ lâu của ngành toà án với việc trong các báo cáo tổng kết hàng năm của mình, Tòa án nhân dân tối Cao đều có trình bày, phân tích những vụ án điển hình, chỉ ra những vướng mắc, sai sót trong tố tụng ở cấp sơ thẩm và ban hành các thông tư hướng dẫn để các Tòa án nhân dân địa phương nghiên cứu, rút kinh nghiệm trong công tác xét xử khi gặp những vụ việc tương tự. Điều này có thể xem là những nỗ lực ban đầu theo hướng tiếp cận án lệ phục vụ công tác xét xử. Tuy nhiên nên chăng cần có hệ thống các án lệ được tập
hợp và cập nhật theo một hình thức dễ tìm hiểu và nghiên cứu phổ biến đối với mọi tầng lớp nhân dân, kinh nghiệm như vậy cực kỳ quý giá, giúp các thẩm phán đỡ phải lúng túng mà bản thân các doanh nhân cũng có thể trù liệu những vấn đề thường gặp để hạn chế rủi ro mắc phải. Đồng thời nên có những quy định bắt buộc đối toà án các cấp trong việc sử dụng có hiệu quả các phán quyết của toà cấp trên khi gặp những vụ việc tương tự. Điều này góp phần không nhỏ vào việc tăng cường giáo dục pháp luật và tạo niềm tin nơi doanh nhân và công chúng vào tính minh bạch, công khai của hệ thống toà án – một điều kiện quan trọng góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế của VN.
3.4 Kiến nghị về nâng cao nhận thức và hiểu biết pháp luật các chủ thể khi tham gia vào hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Trước hết, các chủ thể phải tự nâng cao nhận thức của mình về pháp luật thương mại quốc tế; chủ động tìm hiểu về những quy định pháp lý liên quan đến xuất nhập khẩu tại các thị trường lớn để đưa ra cho mình những đối sách hợp lí. Trước khi tiến hành ký kết hợp động kinh doanh với các đối tác nước ngoài, các chủ thể kinh doanh cần xem xét và nắm vững các quy định pháp luật về hợp đồng của nước đó như vậy sẽ đỡ mất thời gian tìm hiểu pháp luật nước ngoài và có thêm lợi thế để giải quyết các vướng mắc phát sinh.
Như đã trình bày tại phần trên, hiện tại Việt nam chưa tham gia CISG. Tuy nhiên tác giả luận án đồng tình ủng hộ quan điểm của nhóm tác giả do Thạc Sỹ Nguyễn Thị Minh Hằng – Trường đại học ngoại thương là chủ biên trong bài viết “Giải quyết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế” tại Báo điện tử diễn đàn doanh nghiệp như sau:
Các chủ thể kinh doanh cần tìm hiểu kỹ Công ước này để có thể lựa chọn CISG là luật áp dụng cho hợp đồng thay vì áp dụng Luật Việt nam. Điều này giúp cho các chủ thể kinh doanh có thể tránh được những khó khăn khi phải đàm phán lựa chọn luật quốc gia làm luật áp dụng cho hợp đồng. Trên thực tế, việc dẫn chiếu áp dụng luật Việt Nam đôi khi không phải là giải pháp tối ưu, vì pháp luật về hợp đồng nói chung và về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế nói riêng của Việt Nam còn hàm