LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện chiến lược phát triển kinh tế theo mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hướng về xuất khẩu là con đường đúng đắn được Đảng và Nhà nước lựa chọn. Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, Nhà nước ta luôn nỗ lực hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, phát triển kinh tế xã hội. Do kinh tế dựa vào nông nghiệp là chủ yếu nên xuất khẩu những sản phẩm thủ công nghiệp đã trở thành mục tiêu quan trọng, vừa có ý nghĩa thúc đẩy xuất khẩu, tăng trưởng kinh tế, vừa giải quyết nhiều việc làm trong xã hội và khai thác được tài nguyên cũng như nguồn lao động của đất nước. Việt Nam đã vận dụng tối đa lợi thế của mình trong quá trình giao thương với nước ngoài. Cùng với các mặt hàng thế mạnh như nông sản, thủy sản, dệt may, giày dép… các mặt hàng truyền thống đang được sự quan tâm của Nhà nước và Chính phủ, đặc biệt là mặt hàng thủ công mỹ nghệ.
Việt Nam được xem là “mỏ vàng” của ngành thủ công mỹ nghệ thế giới. Tuy nhiên, lượng hàng xuất khẩu còn rất hạn chế so với nhu cầu thế giới và chưa xứng với tiềm năng của ngành. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do các cơ sở, doanh nghiệp sản xuất hầu như không tham gia xuất khẩu trực tiếp nên không nắm bắt được nhu cầu của khách hàng. Việc xuất khẩu chủ yếu thông qua các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước. Đôi khi các doanh nghiệp này do qui mô nhỏ và trình độ chuyên môn còn hạn chế nên việc xuất khẩu phải tiến hành thông qua các trung gian thương mại.
Hoa Kỳ là một trong ba thị trường mục tiêu chính của ngành thủ công mỹ nghệ. Nhu cầu nhập khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ của thị trường này là rất lớn. Dự báo trong những năm sắp tới, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam vào Hoa Kỳ sẽ còn tăng mạnh. Các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nói chung và vào Hoa Kỳ nói riêng đã từng sử dụng các dịch vụ của người trung gian thương mại nhưng không ít các nhà kinh doanh, các doanh nghiệp còn chưa hiểu đúng và chưa biết sử dụng, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Trên cơ sở nhận định chung về tình hình thực tiễn xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, em lựa chọn vấn đề: “Trung gian thương mại trong hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ vào Hoa Kỳ” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình với mong muốn có cái nhìn sâu sắc hơn về một loại hình xuất nhập khẩu chủ đạo, từ đó đóng góp một phần nhỏ vào chiến lược nâng cao hiệu quả xuất khẩu của ngành thủ công mỹ nghệ, đưa xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trở thành một trong những ngành hàng xuất khẩu trọng điểm của Việt Nam trong thời gian tới.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Có thể bạn quan tâm!
- Trung gian thương mại trong hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ vào Hoa Kỳ - 1
- Đại Diện Cho Thương Nhân (Represent The Deales)
- Điều Kiện Để Trở Thành Trung Gian Thương Mại
- Nhượng Quyền Thương Mại (Franchising)
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
Đề tài tập trung vào việc nghiên cứu hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nói chung và xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ nói riêng và thực tiễn sử dụng trung gian thương mại trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực nói trên.
3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp duy vật lịch sử, duy vật biện chứng kết hợp các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, diễn giải, phương pháp tiếp cận thực tiễn và một số phương pháp khác.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu các vấn đề sau:
- Hệ thống hoá các khái niệm, đặc điểm, loại hình, các qui định về trung gian thương mại.
- Đánh giá thực trạng sử dụng trung gian thương mại trong hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ trong thời gian qua.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, đề xuất một số giải pháp nhằm sử dụng có hiệu quả trung gian thương mại trong xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ trong thời gian tới.
5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được chia thành 3 chương.
Chương 1:Khái quát về trung gian thương mại
Chương 2:Thực trạng sử dụng trung gian thương mại trong xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam vào Hoa Kỳ.
Chương 3:Các giải pháp nhằm sử dụng một cách có hiệu quả trung gian thương mại trong xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam vào Hoa Kỳ.
Chương 1.
KHÁI QUÁT VỀ TRUNG GIAN THƯƠNG MẠI
I. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TRUNG GIAN THƯƠNG MẠI
Từ rất lâu, trong hoạt động sản xuất kinh doanh của con người đã có sự tham gia của các trung gian thương mại. Từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ, chúng ta đã thấy sự hiện diện của trung gian trong các buổi bán đấu giá nô lệ. Trong thời kỳ phong kiến, người môi giới đã xuất hiện trong cả mối quan hệ giữa vua chúa và các thương gia, như được mô tả trong truyện “Ngàn lẻ một đêm”. Đến giai đoạn tư bản chủ nghĩa phát triển, đội ngũ các nhà trung gian thương mại đã phát triển ở một tầm cao mới. Họ thành lập công ty, hiệp hội, tập đoàn… với hình thức tổ chức chặt chẽ hơn. Ngày nay chúng ta có thể thấy họ xuất hiện ở mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội loài người từ môi giới nhà đất, môi giới việc làm đến môi giới các loại hàng hoá, cả hữu hình và vô hình.
Giao nhận vận tải và bảo hiểm là hai lĩnh vực, hai cột mốc quan trọng trong sự ra đời và phát triển của trung gian thương mại.
Trong lĩnh vực giao nhận vận tải, những người trung gian hoạt động rất mạnh. Họ thành lập nên các Hãng, các Hiệp hội. Ngay từ những năm 1522, hãng giao nhận đầu tiên trên thế giới đã xuất hiện ở Badiley (Thụy Sĩ) với tên gọi là E.Vasnai. Hãng này kinh doanh cả vận tải lẫn giao nhận với phí thu rất cao, khoảng 1/3 giá trị của hàng hoá.
Cùng với sự phát triển của vận tải và buôn bán quốc tế, giao nhận được tách ra khỏi vận tải và buôn bán, dần dần trở thành một ngành kinh doanh độc lập.
Sự cạnh tranh gay gắt giữa các công ty giao nhận dẫn đến sự ra đời các Hiệp hội giao nhận trong phạm vi một cảng, một khu vực hay một nước. Trên phạm vi quốc tế hình thành các Liên đoàn giao nhận như: Liên đoàn những người giao nhận Bỉ, Hà Lan, Mỹ… Đặc biệt, vào ngày 31/5/1926 tại Viên - thủ đô của nước Áo, “Liên đoàn các Hiệp hội giao nhận quốc tế” - FIATA (International Federation of Freight Forwarder Association) ra đời, có sự tham gia của 19 Hiệp hội quốc gia của những
người giao nhận. FIATA là một tổ chức giao nhận vận tải lớn nhất trên thế giới. Cái tên đó vẫn được giữ cho tới nay. Hiện nay trụ sở của FIATA được chuyển về Zurich, Thụy Sĩ.
FIATA là một tổ chức phi chính phủ đang đại diện cho hơn 35000 nhà giao nhận ở hơn 130 quốc gia. Vị trí toàn cầu của tổ chức này đã được các cơ quan của Liên hợp quốc công nhận như Uỷ ban Liên hợp quốc về Xã hội và Kinh tế (UNESCO); Uỷ ban Liên hợp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD); Uỷ ban xã hội và kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (ESCAP)… Cùng với các tổ chức này, FIATA đã tham gia các vấn đề tư vấn cho Liên hợp quốc. FIATA cũng được các tổ chức quốc tế khác liên quan đến buôn bán và vận tải công nhận như Hội đồng thương mại quốc tế (ICC). FIATA là một tổ chức giao nhận lớn nhất trên thế giới hiện nay, được thành lập không nhằm mục đích kinh doanh và lợi nhuận.
Mục tiêu chính của FIATA là bảo vệ và tăng cường lợi ích của người giao nhận trên phạm vi quốc tế, nâng cao chất lượng dịch vụ giao nhận, liên kết nghề nghiệp, tuyên truyền dịch vụ giao nhận vận tải, xúc tiến quá trình đơn giản hoá và thống nhất chứng từ và các điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn nhằm cải tiến chất lượng dịch vụ của các hội viên, đào tạo nghiệp vụ ở trình độ quốc tế, tăng cường mối quan hệ phối hợp với các tổ chức giao nhận, với các chủ hàng và người chuyên chở.
Hiện nay, nhiều công ty giao nhận của Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của FIATA.
Trong lĩnh vực bảo hiểm, những người môi giới cũng hoạt động rất mạnh mẽ. Bảo hiểm hàng hoá xuất hiện đầu tiên ở Anh vào đầu thế kỷ 17. Các điều kiện bảo hiểm của Viện những người bảo hiểm London đã trở thành quen thuộc và được áp dụng rộng rãi trên thị trường bảo hiểm thế giới.
Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu bảo hiểm của các tổ chức và cá nhân hết sức phong phú, đồng thời cũng có nhiều doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp đa dạng các sản phẩm bảo hiểm tới khách hàng. Người có nhu cầu bảo hiểm đặc biệt là các tổ chức kinh tế lớn, mặc dù luôn nhận được các thông tin về các doanh nghiệp bảo hiểm, nhưng họ không thể đánh giá khả năng của nhiều doanh nghiệp có chung một loại bảo hiểm
để lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm tốt hơn hoặc những sản phẩm có điều kiện bảo hiểm rộng hơn và mức phí rẻ hơn, phù hợp hơn. Chính vì vậy đã xuất hiện các nhà môi giới bảo hiểm.
Tổ chức môi giới bảo hiểm ra đời, đại diện cho quyền lợi của người tham gia bảo hiểm để lựa chọn, thu xếp và ký kết hợp đồng bảo hiểm với doanh nghiệp bảo hiểm. Để tiến hành hoạt động môi giới bảo hiểm, đòi hỏi phải có kiến thức và quy mô hoạt động nhất định và phải có trách nhiệm nghề nghiệp. Người môi giới bảo hiểm phải phân tích để cung cấp cho người tham gia bảo hiểm những phương án bảo hiểm hiệu quả nhất. Sau khi hợp đồng bảo hiểm được ký kết, người được bảo hiểm còn có thể uỷ thác cho môi giới theo dõi việc thực hiện hợp đồng và đòi người bảo hiểm bồi thường các trường hợp xảy ra sự kiện bảo hiểm gây thiệt hại cho đối tượng được bảo hiểm. Điều 90 luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam qui định nội dung hoạt động của môi giới bảo hiểm bao gồm các công việc như: Cung cấp thông tin về loại hình bảo hiểm, điều kiện, điều khoản, phí bảo hiểm, thông tin về doanh nghiệp bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm; tư vấn cho bên mua bảo hiểm trong việc đánh giá rủi ro, lựa chọn loại hình bảo hiểm, điều kiện, điều khoản, biểu phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm; đàm phán, thu xếp giao kết hợp đồng bảo hiểm giữa doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm, thực hiện các công việc khác có liên quan đến việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của bên mua bảo hiểm.
Có thể nói, sự ra đời của trung gian thương mại chính là tất yếu lịch sử trong tiến trình phát triển của nền kinh tế Thế giới. Về phần mình, trung gian thương mại cũng tác động mạnh mẽ trở lại, thúc đẩy quá trình phát triển của thương mại Thế giới thông qua những đóng góp to lớn trong sắp xếp, phân công lại lao động xã hội, làm tăng giá trị sản phẩm, thay đổi kênh phân phối, đưa sản phẩm nhanh chóng đến tay người tiêu dùng…
II. VAI TRÒ CỦA TRUNG GIAN TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
1. Vai trò của trung gian thương mại trong nền kinh tế
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, nhu cầu mua bán, giao nhận vận tải, bảo hiểm của các tổ chức và cá nhân hết sức đa dạng. Song hành với nó, nhiều doanh nghiệp giao nhận vận tải, bảo hiểm… đưa ra một lượng lớn các dịch vụ - sản phẩm với nội dung, hình thức và chất lượng phong phú ra thị trường. Người có nhu cầu sử dụng các sản phẩm loại này, đặc biệt là các tổ chức kinh tế lớn mặc dù luôn nhận được thông tin về các doanh nghiệp cung cấp, nhưng họ không thể đánh giá được khả năng của các doanh nghiệp có cùng một loại sản phẩm để lựa chọn doanh nghiệp cung cấp tốt hơn hoặc cùng một loại sản phẩm của những doanh nghiệp có uy tín trên thị trường, tìm đến những sản phẩm có mức phí rẻ hơn, phù hợp hơn. Vì thế, các nhà môi giới, các nhà đại lý buôn bán hàng hóa, dịch vụ xuất hiện và nhanh chóng trở thành người bạn thân thiết, người trợ thủ đắc lực cho các doanh nghiệp, người tiêu dùng…
Với sự phát triển của phân công lao động xã hội, mỗi người, mỗi doanh nghiệp đều có xu hướng tập trung kinh doanh hàng hóa, dịch vụ mà mình có thế mạnh, chi phí thấp, để tối đa hóa lợi nhuận. Sự xuất hiện nhiều ngành nghề mới cho phép xã hội phát triển nhanh hơn, mạnh hơn, tốt hơn. Các ngành này, bản thân chúng cũng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Trung gian thương mại là một loại hình kinh doanh xuất hiện sau, do nhu cầu của xã hội. Những người trung gian xuất hiện trong sản xuất, lưu thông hàng hóa vừa giải quyết những bế tắc phát sinh, vừa tạo điều kiện cho sản xuất, tiêu dùng phát triển. Mặt khác do chuyên môn hóa nên các nhà trung gian sẽ xây dựng cho mình một hệ thống các mối quan hệ chuyên sâu, thu lượm cho mình nhiều kiến thức, kinh nghiệm quý báu mà các nhà sản xuất, kinh doanh không thể có được. Chẳng hạn, trong lĩnh vực thuê tàu chở hàng, những người môi giới với lợi thế quen biết rộng, họ có thể biết được các thông tin về tàu, về tuyến đường, mức cước của rất nhiều hãng tàu nên họ có thể dễ dàng lựa chọn cho các chủ hàng một tuyến đường, một con tàu hay các điều khoản trong hợp đồng có lợi nhất cho người thuê tàu.
Trung gian ra đời đã mang lại cho nền kinh tế nhiều lợi ích to lớn:
- Đẩy mạnh phân công lao động xã hội phát triển.
- Giảm bớt thời gian, công sức của các nhà sản xuất, kinh doanh trong việc nghiên cứu, tìm hiểu thị trường.
2. Trung gian thương mại đối với người xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa
2.1. Đối với người xuất khẩu hàng hóa
- Giảm bớt chi phí nghiên cứu, tìm hiểu, xâm nhập thị trường xuất khẩu, khách hàng.
- Có thể sử dụng được thị trường cùng các dịch vụ trợ giúp, nguồn tài chính của người trung gian.
- Có thể sử dụng được cơ sở vật chất của người trung gian trong khi tiêu thụ hàng (kho tàng, hệ thống cửa hàng, hệ thống thông tin, đội ngũ nhân viên bán hàng…)
- Có thể giảm bớt được các rủi ro, rắc rối trong quan hệ với những người tiêu dùng và các khách hàng trực tiếp trên thị trường.
2.2. Đối với người nhập khẩu hàng hóa
- Giảm bớt chi phí nghiên cứu, tìm hiểu, xâm nhập thị trường nhập khẩu, khách hàng.
- Có thể sử dụng được cơ sở vật chất của người trung gian trong khi nhập hàng (kho tàng, hệ thống cửa hàng, hệ thống thông tin, đội ngũ nhân viên…).
- Có thể giảm bớt được các rủi ro, rắc rối trong quan hệ với những người bán và các khách hàng trực tiếp trên thị trường.
2.3. Trung gian thương mại với các ngành dịch vụ
- Nhờ có người trung gian tập trung cung, cầu về một loại dịch vụ nào đó mà người kinh doanh có kế hoạch phục vụ tốt hơn.
- Các ngành dịch vụ có điều kiện tập trung sức lực, tiền của để xây dựng và phát triển ngành nghề, trang bị các máy móc thiết bị mới, hiện đại hơn.
- Các ngành dịch vụ có thể giảm bớt các chi phí quảng cáo…