Cơ Cấu Loại Hình Đầu Tư Của Hoa Kỳ Vào Việt Nam (Trước Năm 2000)


Về hình thức đầu tư: Vốn đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào Việt Nam phân phối khá đồng đều cho cho hai hình thức liên doanh và xí nghiệp 100% vốn nước ngoài, trong khi hình thức hợp đồng kinh doanh chỉ chiếm tỷ trọng không đáng kể (0,3%), đây là nét rất đặc trưng của các nhà đầu tư Hoa Kỳ. Nếu trong tổng FDI nước ngoaì vào Việt Nam, có sự mất cân đối giữa tỷ trọng của liên doanh (chiếm 70%) và hình thức 100% vốn nước ngoài (chỉ chiếm 20%), thì trong cơ cấu vốn đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam, hai chỉ số này đã xích lại gần nhau.

Thực tế trong giai đoạn trước năm 2000, khi tham gia liên doanh, phía Việt Nam tỏ ra yếu cả về vốn đóng góp lẫn năng lực quản lý của cán bộ. Trong khi đó các doanh nghiệp nước ngoài muốn độc lập hơn khi họ ngày càng hiểu biết hơn về pháp luật, chính sách, cách thức hoạt động kinh doanh ở môi trường Việt Nam. Do vậy, hình thức xí nghiệp 100% vốn nước ngoài đang thu hút sự chú ý đặc biệt của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, trong đó đặc biệt là các nhà đầu tư Mỹ. (Xem bảng 5).

Bảng 6: Cơ cấu loại hình đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam (trước năm 2000)


STT

Lĩnh vực

Số dự án

Tỷ trọng (%)

Số vốn (triệu USD)

Tỷ trọng (%)

1

100% vốn liên doanh

50

54,9

586,583

49,6

2

Liên doanh

35

38,5

529,444

50,1

3

Hợp đồng kinh doanh

6

6,6

3,209

0,3

Tổng cộng

91

100,0

1.182,236

100,0

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 211 trang tài liệu này.

Tiến trình quan hệ kinh tế Hoa Kỳ - Việt Nam giai đoạn 2000 - 2012 - 10

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư [190]


2.2. Sự phát triển của quan hệ kinh tế Hoa Kỳ - Việt Nam giai đoạn 2000 - 2012

2.2.1. Quan hệ thương mại

Quan hệ kinh tế Hoa Kỳ - Việt Nam nói chung, quan hệ thương mại nói riêng, là mối quan hệ giữa hai chủ thể có sự chênh lệch rất lớn về quy mô và trình độ phát triển. Vào thời điểm BTA bắt đầu có hiệu lực, chúng ta có thể so sánh một vài chỉ số kinh tế quan trọng của hai quốc gia như sau:

Hoa Kỳ là siêu cường duy nhất thế giới, số liệu của năm 2003 cho thấy, dân số có khoảng 290 triệu, GDP: 11.000 tỷ USD, giá trị xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch


vụ 2.000 tỷ USD, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 123,5 tỷ USD và trong khoảng 25 năm qua Hoa Kỳ luôn nhập siêu mỗi năm hàng trăm tỷ USD [121, tr. 1].

Trong khi đó, phía chủ thể Việt Nam, dân số khoảng 80 triệu (2003), GDP khoảng 40 tỷ USD, tổng xuất nhập khẩu hàng hoá gần 50 tỷ USD, đầu tư ra nước ngoài không đáng kể (đến hết năm 2003, tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài là 215,718 triệu USD) [121, tr. 2].


HK

VN

GDP( USD)

11.000 tỷ

Dân số( Triệu) 290 triệu


HK




VN





80 triệu


50 tỷ


Năm 2003


Quốc gia


Năm 2003


Quốc gia


Biểu 1: Tổng GDP năm 2003 Biểu 2: Dân số năm 2003

của Hoa Kỳ và Việt Nam. của Hoa Kỳ và Việt Nam.

(Nguồn: [121, tr. 2])

Như vậy, về GDP Việt Nam chỉ bằng khoảng 0,35% của Hoa Kỳ, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam bằng 2,5% của Hoa Kỳ, dân số bằng khoảng 30% dân số Hoa Kỳ. Về diện tích tự nhiên, Hoa Kỳ chiếm 9.373.000 km2 thì Việt Nam chỉ chiếm 329.560 km2 - chỉ xấp xỉ bằng 1/30 diện tích của Hoa Kỳ hoặc xấp xỉ bằng tiểu bang New Mexico [92, tr. 5]. Qua vài số liệu trên cho thấy, bất cứ lĩnh vực nào Hoa Kỳ cũng vượt trội hơn Việt Nam rất nhiều lần.


Về trao đổi thương mại, Hoa Kỳ là bạn hàng lớn nhất của Việt Nam và Việt Nam là bạn hàng đứng thứ 52 của Hoa Kỳ. So sánh về quan hệ xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam với Hoa Kỳ có thể thấy: năm 2002, Việt Nam xuất sang Hoa Kỳ 2.394,745 triệu USD. Tổng nhập khẩu của Hoa Kỳ với thế giới là 1.200 tỷ USD, như vậy xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ chỉ chiếm khoảng 0,2 % tổng nhập khẩu của Hoa Kỳ với thế giới. Năm 2003, Việt Nam xuất sang Hoa Kỳ 4,554,860 tỷ USD cũng chỉ chiếm khoảng 0,3% thị phần nhập khẩu của Hoa Kỳ. Việt Nam nhập khẩu từ Hoa Kỳ năm 2002 là 580,155 triệu USD chiếm 0,08 tổng giá trị xuất khẩu của Hoa Kỳ, năm 2003 con số này là 1.324,440 triệu USD, cũng chỉ chiếm khoảng 0,15%. Có thể cho rằng, tỷ trọng của Việt Nam trong cán cân thương mại của Hoa Kỳ là rất thấp.

Những con số trên đây cho thấy quy mô nền kinh tế Hoa Kỳ và Việt Nam có sự chênh lệch rất lớn, quan hệ xuất, nhập khẩu của Việt Nam với Hoa Kỳ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong nền kinh tế Hoa Kỳ. Điều này có nghĩa là tác động của nền kinh tế Việt Nam đến nền kinh tế Hoa Kỳ là rất thấp, nếu không nói là không đáng kể, ngược lại tác động của nền kinh tế Hoa Kỳ đến Việt Nam là rất lớn. Với tốc độ trao đổi hàng hoá giữa hai nước tăng lên hết sức nhanh chóng trong mấy năm qua, nhất là từ sau khi có BTA, làm tăng khả năng mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại song phương. Điều đó phù hợp với chính sách mở rộng quan hệ kinh tế của Việt Nam, góp phần tích cực cho tiến trình đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước. Để hiểu rõ hơn nội dung và tiến trình của quan hệ kinh tế Hoa Kỳ - Việt Nam chúng ta có thể đi sâu tìm hiểu trên một vài lĩnh vực quan hệ chủ yếu (thương mại, đầu tư ).

Năm 2000 là năm có ý nghĩa quan trọng đối với Hoa Kỳ và Việt Nam: đối với Hoa Kỳ, đây là năm bầu cử Tổng thống dẫn đến chuyển giao quyền lực giữa đảng Dân chủ sang đảng Cộng hòa; đối với Việt Nam, đây là năm cuối thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, năm bản lề chuẩn bị Đại hội X của Đảng (2001).

Trong phạm vi nghiên cứu về mặt thời gian, đề tài khảo sát, đánh giá quan hệ kinh tế Hoa Kỳ - Việt Nam từ năm 2000 đến năm 2012, bởi lẽ, đây là năm ký kết


Hiệp định BTA, tạo một bước ngoặt quan trọng trong quan hệ kinh tế Hoa Kỳ - Việt Nam. Năm 2000, Hiệp định BTA chưa có hiệu lực nên chưa tác động trực tiếp đến tiến trình quan hệ kinh tế, nhưng về mặt chính sách, sự tác động này rất to lớn và có ý nghĩa quyết định với bước phát triển về chất của quan hệ kinh tế song phương. Trong năm này, trị giá trao đổi thương mại Hoa Kỳ và Việt Nam đã đạt 1.190 triệu USD. Tuy nhiên, khi khảo sát tiến trình quan hệ, đề tài bắt đầu khảo sát từ năm 2001, vì năm này BTA mới có hiệu lực trên thực tế. Do đó, quan hệ thương mại giữa hai nước có bước chuyển biến, liên tục phát triển, chúng tôi có thể chia thành 2 giai đoạn nhỏ như sau:

2.2.1.1. Giai đoạn khi BTA có hiệu lực đến khi Việt nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (2001 - 2006)

BTA được ký kết năm 2000, nhưng đến cuối năm 2001 mới có hiệu lực thực thi. Năm 2006 là năm có ý nghĩa quan trọng đối với quan hệ kinh tế Hoa Kỳ - Việt Nam, vì năm này phía Việt Nam gia nhập WTO, đồng thời phía Hoa Kỳ trao cho Việt Nam Quy chế Thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR).

a. Quá trình phát triển

Trao đổi thương mại Hoa Kỳ - Việt Nam năm 2001: Năm 2001 là năm đầu tiên BTA có hiệu lực, kim ngạch nhập khẩu của Hoa Kỳ từ Việt Nam năm 2001 là 1.065,3 triệu USD. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Hoa Kỳ đạt 410 triệu USD năm 2001 [xem bảng 7, 8]. Như vậy, tổng trị giá trao đổi thương mại hai chiều Hoa Kỳ - Việt Nam năm này đạt 1.475,3 triệu USD. Nếu so sánh con số này với năm 2000 là 1.190 triệu USD thì tổng trị giá có tăng nhưng không đáng kể vì BTA chưa tác động trên thực tế do Hiệp định này chỉ có hiệu lực từ ngày 10 tháng 12 năm 2001).

Từ khi hai nước ký BTA (2000) đến hết năm 2001, vấn đề nổi lên xung quanh việc chính quyền Mỹ chậm thông qua bản Hiệp định này. Như đã biết, sự tác động đến việc hoạch định chính sách kinh tế - thương mại ở Hoa Kỳ rất phức tạp, các chính sách được thể hiện qua các đạo luật hay Hiệp định thương mại phải được Quốc hội thông qua thì mới có hiệu lực thực hiện. Đối với vấn đề ký kết Hiệp định


thương mại, dù tổng thống có quyền hạn rất lớn nhưng những năm gần đây (sau năm 1994), Quốc hội Mỹ đã hạn chế bớt quyền lực của Tổng thống. Mặt khác, sự tác động của nhân tố khác biệt chính trị đến quan hệ kinh tế Hoa Kỳ - Việt Nam là rất lớn. Do đó, việc thông qua BTA đã bị kéo dài, một mặt do chủ trương của chính quyền Tổng thống G. Bush muốn gắn BTA với một kế hoạch thương mại “trọn gói” phức tạp, nên mất nhiều thời để gian dàn xếp. Mặt khác, “chính quyền Mỹ chịu ảnh hưởng và áp lực từ giới bảo thủ ở đây về vấn đề nhân quyền, tự do tôn giáo và những nhóm họat động tôn giáo quá khích” [113]. Sự chậm trễ thông qua BTA của phía Hoa Kỳ đã gây tâm lý bức xúc trong giới doanh nghiệp hai nước nhất là Hoa Kỳ “Sự chậm trễ của Hiệp định sẽ ảnh hưởng xấu đến sự hợp tác của các doanh nghiệp Mỹ với thị trường Việt Nam và doanh nghiệp Việt Nam với thị trường Mỹ” [113]. Dù bị chậm trễ những đến ngày 10 tháng 10 năm 2011, Quốc hội Mỹ (lưỡng viện) đã thông qua BTA. Tuy vậy, trước đó (9/2001) Hạ viện Mỹ đã thông qua cái gọi là Đạo luật Nhân quyền Việt Nam (H.R.2833) nhằm gắn các vấn đề về sự khác biệt giá trị giữa hai nước với vấn đề quan hệ kinh tế. Tại kỳ họp thứ 10 ngày 28 tháng 11 năm 2001, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã phê chuẩn BTA.

Trong năm này, nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế song phương, phía Việt Nam đã cử phái đoàn cấp cao do Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dẫn đầu đã sang thăm và làm việc với Hoa Kỳ (9 - 14/12/2001). Đây là chuyến thăm đầu tiên của phái đoàn cấp cao nhất Việt Nam đến Hoa Kỳ kể từ khi bình thường hóa quan hệ, và chương trình làm việc với nhiều nội dung quan trọng về kinh tế.

Trao đổi thương mại Hoa Kỳ - Việt Nam năm 2002 và năm 2003: Năm 2002 là năm BTA thực sự có hiệu lực thực thi, vì vậy tác động tích cực của BTA đến kết quả quan hệ kinh tế song phương được thể hiện rõ nét.

Trị giá nhập khẩu hàng hóa của Hoa Kỳ từ Việt Nam đạt 2.452,8 triệu USD, tăng gần gấp 2,4 lần năm 2001, trong đó đứng đầu là nhóm hàng dệt may, gỗ và sản phẩm gỗ, thủy sản… Xuất khẩu hàng hóa của Hoa Kỳ sang Việt Nam đạt 457,48 triệu USD [xem bảng 7, 8]. Tổng trị giá trao đổi thương mại hai chiều Hoa Kỳ - Việt Nam trong năm này đạt gần 3 tỷ USD, tăng gấp hơn 2 lần năm 2001. Như vậy,


tác động tích cực của BTA đã được thể hiện rất rõ qua kết quả của thương mại song phương, điều này chứng minh vai trò quyết định của nhân tố chính sách trong quan hệ kinh tế Hoa Kỳ - Việt Nam.

Quan hệ kinh tế Hoa Kỳ - Việt Nam trong năm này nổi lên vấn đề “Cuộc chiến catfish của Mỹ chống cá tra và cá basa Việt Nam” [33, tr. 25]. Bởi lẽ BTA vừa được Tổng thống G. Bush ký chưa ráo mực thì thế giới đã phải chứng kiến những hành động trái ngược hẳn tình thần Hiệp định của một nhóm nhà kinh doanh Mỹ, trong một chiến dịch chống lại nhập khẩu cá tra và cá ba sa của Việt Nam vào thị trường này. Vấn đề này đã bắt đầu được khởi xướng từ cuối năm 2000 và căng thẳng nhất vào năm 2002, “Catfish là tên tiếng Anh chỉ tất cả các loại cá da trơn (không có vẩy), gồm cá trê, cá nheo, cá tra, ba sa, cá lăng, cá bông lau…” [33, tr. 25]. Các loại cá này được xếp vào các loại cá khác nhau trong đó họ cá nheo Mỹ và họ cá da trơn châu Á. Lớn tiếng nhất trong cuộc chiến catfish năm này là Hiệp hội các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ (CFA). Nguyên nhân chính của vụ kiện là sự bất bình của CFA trước sự cạnh tranh của những sản phẩm cá da trơn nhập khẩu vảo Mỹ có chất lượng tốt hơn, giá bán rẻ hơn, đang chiếm lĩnh thị trường Mỹ. CFA đã vận động các nghị sĩ trong Quốc hội Mỹ nhằm dấy lên chiến dịch bôi nhọ hạ thấp uy tín cá da trơn Việt Nam, kêu gọi Quốc hội Mỹ thông qua Dự luật H.R 2439 với tên gọi “Ghi nhãn về Nguồn gốc xuất xứ” đối với cá nuôi nhập khẩu trong khâu bán lẻ. Thậm chí, “trong bài viết cho tờ Bưu điện Washington,Thượng nghị sĩ Marion Barry còn vô lý nói rằng cá da trơn nuôi ở sông Mekong có thể chứa cả dư lượng chất độc màu da cam mà quân đội Mỹ đã rải xuống…” [33, tr. 26]. Mặc dù gặp khó khăn trên thị trường Hoa Kỳ, nhưng cá da trơn Việt Nam vẫn đứng vững và ngày càng thu hút các giới tiêu thụ có yêu cầu chất lượng cao không phải chỉ ở thị trường Mỹ mà ở cả thị trường các nước khác. Do đó, “hóa ra cuộc chiến cá ba sa của một số giới kinh Mỹ đang quảng bá cho cá ba sa Việt Nam trên thị trường thế giới” [33, tr. 26]. Điều này có thể thấy qua con số nhập khẩu hàng thủy sản của Hoa Kỳ từ Việt Nam năm 2002 đạt 673,7 triệu USD (so với năm 2001 đạt 482,4 triệu USD) [xem bảng 7].


Tiếp tục phát huy tác dụng của BTA, năm 2003 trao đổi thương mại Hoa Kỳ - Việt Nam tiếp tục thu được thành tựu lớn.

Kim ngạch nhập khẩu của Hoa Kỳ từ Việt Nam năm 2003 là 3.938,6 triệu USD [xem bảng 7, 8], tăng gần gấp 4 lần con số của năm 2001, và nhiều hơn 1,5 tỷ USD so với năm 2002. Trong khi đó, xuất khẩu của Hoa Kỳ sang Việt Nam đạt 1.144,23 triệu USD, tăng gấp hơn hai lần năm 2002. Như vậy, tổng trị giá trao đổi thương mại Hoa Kỳ - Việt Nam năm 2003 đạt trên 5 tỷ USD. Đây là con số khích lệ, chứng minh hiệu ứng tích cực của BTA trên thực tiễn quan hệ kinh tế song phương Hoa Kỳ - Việt Nam.

BTA có hiệu lực đã đưa mức thuế trung bình đối với hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam vào Hoa Kỳ từ khoảng 40% xuống còn 4%, (tác động của MFN/NTR) tạo cơ sở cho mối quan hệ thương mại tiếp tục tăng mạnh nhờ ưu đãi hai bên dành cho nhau. Tốc độ và quy mô tăng trưởng là một điều bất ngờ đối với nhiều chuyên gia kinh tế (vì họ cho rằng, với tốc độ phát triển của nền kinh tế Việt Nam, phải mất nhiều thời gian chuẩn bị để tận dụng lợi thế của BTA và nâng cao hiệu quả xuất khẩu, hoặc nếu tăng được xuất khẩu vào Hoa Kỳ thì Việt Nam phải giảm xuất khẩu sang các thị trường khác. Trên thực tế từ khi có BTA, Việt Nam vừa tăng xuất khẩu vào Hoa Kỳ cũng như vào các thị trường khác, đây là một thành công lớn của nền sản xuất hàng hóa xuất khẩu Việt Nam.

Số liệu chính thức cho thấy, trong vòng 5 năm trước BTA, Hoa Kỳ nhập khẩu từ Việt Nam một lượng hàng hoá với giá trị 3.424,834 triệu USD và xuất khẩu vào Việt Nam 1.671,270 triệu USD, Hoa Kỳ nhập siêu 1.753,564 triệu USD (xem mục 2.1.1, bảng 2). Trong thời kỳ này, Hoa Kỳ chủ yếu nhập hàng sơ chế và xuất khẩu hàng công nghiệp chế tạo. Điều này thể hiện trình độ phát triển cao của nền kinh tế Hoa Kỳ và thực trạng nền kinh tế Việt Nam: chưa có hàng chế tạo có sức cạnh tranh đáng kể để chen chân vào thị trường Hoa Kỳ .

Từ khi có BTA, chỉ tính riêng trong hai năm (2002 và 2003), Hoa Kỳ đã nhập tới gần 6,4 tỷ USD từ Việt Nam và xuất khẩu sang Việt Nam trên 1,5 tỷ USD (Hoa Kỳ nhập siêu gần 5 tỷ USD so với 1,7 tỷ USD của cả 5 năm trước BTA).


Qua những số liệu trên, có thể thấy quan hệ thương mại Hoa Kỳ - Việt Nam phát triển thật nhanh chóng: mức nhập khẩu trung bình trong hai năm 2002 và 2003 của Hoa Kỳ cao hơn mức của cả 5 năm trước BTA (1995 - 2000) gấp 5 lần. Trong 3 năm sau BTA mức nhập khẩu của Hoa Kỳ từ Việt Nam càng tăng nhanh qua hàng năm, năm 2002 tăng 230 % so với năm 2001, năm 2003 tăng 190 % so với năm 2002 và năm 2003 tăng 433% so với năm 2001. Xuất khẩu của Hoa Kỳ sang Việt Nam năm 2002 tăng 130 % so với năm 2001, năm 2003 tăng gần 230 % so với năm 2002 và năm 2003 tăng 287% so với năm 2001 [121, tr. 6]. Sự tăng trưởng đột biến này là do hiệu ứng tích cực của BTA mang lại. Điều này chứng minh vai trò động lực không thể thiếu của chính sách trong quan hệ kinh tế song phương.

Bước sang năm 2003, vụ kiện của CFA về cá da trơn Việt Nam vẫn tiếp tục, ngày 27 tháng 1 năm 2003, Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) ra kết luận phía Việt Nam đã “bán dưới giá” sản phẩm của mình vào nước này, tiếp đó Ủy ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ (USITC) đã phê chuẩn việc áp đặt thuế chống phá giá đối với mặt hàng phi lê cá tra, cá ba sa đông lạnh của Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ với mức rất cao từ 36,84% đến 63,88%. Cuộc chiến thương mại tiếp tục mở rộng khi sang năm 2003, Hoa Kỳ chuẩn bị kiện Việt Nam bán phá giá tôm sú. Đây là điều minh chứng về tác động khó khăn của sự chênh lệch về trình độ phát triển trong chính sách quản lý kinh tế và hệ thống luật pháp của hai chủ thể quan hệ Hoa Kỳ và Việt Nam.

Nhân tố khác biệt chính trị tiếp tục tác động đến quan hệ song phương khi ngày 16 tháng 7 năm 2003, Hạ viện Mỹ thông qua Dự luật chuẩn chi về quan hệ đối ngoại của Bội Ngoại giao Mỹ trong năm tài chính 2004 - 2005 mang ký hiệu HR.1950. Đây thực chất là ý đồ của một bộ phận thiếu thiện chí trong chính giới Hoa Kỳ nhằm luồn lách để đưa một phần của “Dự luật nhân quyền Việt Nam 2003” (HR.1587) thành điều khoản bổ sung cho Dự luật HR 1950, nhằm gắn việc viện trợ nhân đạo với việc “hỗ trợ” dân chủ, nhân quyền tại Việt Nam. Đây có thể xem là tác động khó khăn của nhân tố chính trị đối với quan hệ kinh tế Hoa Kỳ - Việt Nam.

Xem tất cả 211 trang.

Ngày đăng: 08/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí