1.1. Một số khái niệm về nghèo.
1.1.1. Khái niệm nghèo.
1.1.1.1. Theo quan niệm của quốc tế.
Tại hội nghị chống nghèo khu vực Châu Á – Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc, Thái Lan tháng 09/1993 định nghĩa: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế- xã hội và phong tục tập quán của địa phương”.
Với quan niệm ở trên, việc xem xét nghèo cần lưu ý 3 vấn đề:
- Nhu cầu cơ bản của con người.
- Nghèo thay đổi theo thời gian.
- Nghèo thay đổi theo không gian.
Có thể bạn quan tâm!
- Thực trạng công tác giảm nghèo huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh năm 2013 - 1
- Thực trạng công tác giảm nghèo huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh năm 2013 - 2
- Nguyên Nhân Dẫn Tới Nghèo Trên Thế Giới.
- Nhóm Chính Sách Tạo Điều Kiện Cho Người Nghèo Ổn Định, Phát Triển Sản Xuất, Việc Làm, Tăng Thu Nhập.
- Thực Trạng Công Tác Giảm Nghèo Trên Địa Bàn Huyện Thuận Thành.
Xem toàn bộ 94 trang tài liệu này.
Khái niệm trên đã được nhiều quốc gia trong khu vực chấp nhận và sử dụng trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, để phân loại một cách chi tiết hơn nữa, các nước còn phân chia nghèo thành 2 loại là nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư thuộc diện nghèo không có khả năng thoả mãn nhu cầu tối thiểu của cuộc sống: ăn, mặc, ở, đi lại...
Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư thuộc diện nghèo có mức sống dưới mức sống trung bình của cộng đồng và địa phương đang xét.
Tại hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội, tổ chức tại Copenhagen, Đan Mạch năm 1995 đã đưa ra khái niệm cụ thể hơn về nghèo như sau:
“Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn 1 đôla (USD) mỗi ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ mua những sản phẩm thiết yếu để tồn tại.”
Quan niệm này rất cụ thể, cho ta thấy một cách tiếp cận để xem xét nghèo trên cơ sở mức thu nhập bình quân/người/ngày và nói lên mức độ đáp ứng nhu cầu cơ bản của con người thông qua việc sử dụng nguồn thu nhập đó để trang trải trong việc mua những sản phẩm thiết yếu
Theo quan điểm của ngân hàng thếgiới WB (World bank): Nghèo là một khái niệm đa chiều vượt khỏi phạm vi túng thiếu về vật chất; nghèo không chỉ gồm các chỉ số dựa trên thu nhập mà còn bao gồm các vấn đề liên quan đến năng lực như: dinh dương, sức khỏe, giáo dục, khả năng dễ bị tổn thương, không có quyền phát ngôn và không có quyền lực.
Đây là một quan điểm khá đầy đủ, bởi với quan niệm này người ta không chỉ quan tâm đến yếu tố “túng thiếu về vật chất” mà còn quan tâm đến một vấn đề rất quan trọng đối với mỗi con người, đó là việc “không có quyền phát ngôn và không có quyền lực”; bởi người nghèo là một trong những người được xếp vào nhóm người “yếu thế”, cho nên họ ít có cơ hội tham gia vào các hoạt động của cộng đồng, không có quyền quyết định.
Tóm lại những quan niệm về nghèo nêu trên, tùy theo mức độ đánh giá và mức bao quát nghèo của khái niệm, đều phản ánh ba khía cạnh chủ yếu của người nghèo đó là:
- Có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư.
- Không được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành cho con người.
- Thiếu cơ hội lựa chọn và tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng.
1.1.1.2. Quan niệm của Việt Nam.
Đối với Việt Nam, trước năm 1990, vấn đề nghèo ít được quan tâm, nó chỉ được đặc biệt chú ý từ sau năm 1990, tức là sau 3 năm chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường, vấn đề phân hóa giàu nghèo xuất hiện và diễn ra nhanh chóng. Bên cạnh đó, vấn đề nghèo đang là vấn đề bức xúc trên phạm vi toàn cầu, nhất là ở các nước chậm và đang phát triển như khu vực Châu Phi và Châu Á.
Theo Chương trình Quốc gia Xóa đói giảm nghèo có đưa ra khái niệm cho nghèo ở Việt Nam:
“Nghèo là tình trạng bộ phận dân cư chỉ có khả năng thỏa mãn một phần các nhu cầu cơ bản của con người và có mức sống ngang bằng với mức sống tối thiểu của cộng đồng xét trên mọi phương diện.”
1.1.2 Khái niệm liên quan.
Có một số khái niệm liên quan tới nghèo và giảm nghèo, chúng ta cần nghiên cứu để hiểu sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về tất cả các vấn đề liên quan tới
nghèo để giúp cho các hoạt động chuyên môn trong lĩnh vực giảm nghèo có hiệu quả:
Nhu cầu cơ bản:
Nhu cầu cơ bản của con người gồm 8 yếu tố, dược phân thành 2 loại nhu cầu:
- Nhu cầu tối thiểu: đó là các nhu cầu thiết yếu nhất để duy trì cuộc sống như ăn, mặc, ở và một số sinh hoạt hàng ngày nhưng ở mức tối thiểu.
- Nhu cầu sinh hoạt hằng ngày gồm: Văn hóa, giáo dục, y tế, đi lại, giao tiếp.
Ngưỡng nghèo.
Là ngưỡng nhu cầu tối thiểu được sử dụng làm ranh giới để xác định nghèo hay không nghèo.
Trong thời kỳ đầu của những năm 90, các nhà khoa học Việt Nam sử dụng 8 yếu tố trên làm căn cứ xác định nhu cầu tối thiểu.
Hộ nghèo: Là tình trạng của một số hộ gia đình chỉ thoả mãn một phần nhu cầu tối thiểu của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
1.1.3. Khái niệm về giảm nghèo.
Giảm nghèo là làm cho bộ phận dân cư nghèo nâng cao mức sống, từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo. Biểu hiện ở tỷ lệ phần trăm và số lượng người nghèo giảm xuống. Nói một cách khác giảm nghèo là quá trình chuyển bộ phận dân cư nghèo lên một mức sống cao hơn.
Ở khía cạnh khác giảm nghèo là chuyển từ tình trạng có ít điều kiện lựa chọn sang tình trạng có đầy đủ điều kiện lựa chọn hơn để cải thiện đời sống mọi mặt của mỗi người.
Ở góc độ nước nghèo: giảm nghèo ở nước ta chính là từng bước thực hiện quá trình chuyển đổi trình độ sản xuất cũ, lạc hậu còn tồn đọng trong xã hội sang trình độ sản xuất mới, cao hơn. Mục tiêu hướng tới là trình độ sản xuất tiến tiến của thời đại.
Ở góc độ người nghèo: giảm nghèo là quá trình tạo điều kiện giúp đỡ người có khả năng tiếp cận các nguồn lực của sự phát triển một cách nhanh nhất, trên cơ sở đó có nhiều lựa chọn hơn, giúp họ từng bước thoát khỏi tình trạng.
1.2. Phương pháp tiếp cận và xác định chuẩn nghèo.
1.2.1. Chuẩn nghèo tại Việt Nam.
Chuẩn nghèo được xem là thước đo mức sống của dân cư để phân biệt trong xã hội ai thuộc diện nghèo và ai không thuộc diện nghèo.
Bộ LĐTBXH căn cứ vào chỉ tiêu mức sống thực tế các địa phương, trình độ phát triển Kinh tế - Xã hội để xác định chuẩn nghèo. Trước đó bộ LĐTBXH đã nhiều lần thay đổi tiêu chuẩn cụ thể cho hộ nghèo. Các tiêu chí này thay đổi theo thời gian điều tra cùng với sự thay đổi mặt bằng thu nhập quốc gia. Ngày 30/01/2011, dựa trên đề nghị của Bộ trưởng Bộ LĐTBXH, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã kí quyết định số 09/2011/QĐ-Ttg về việc ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cần nghèo áp dụng cho gia đoạn 2011 – 2015 như sau:
(1) Hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 400.000 đồng/người/tháng (từ 4.800.000 đồng/người/năm) trở xuống.
(2) Hộ nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000 đồng/người/tháng (từ 6.000.000 đồng/người/năm) trở xuống.
(3) Hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ
401.000 đồng đến 520.000 đồng/người/tháng.
(4) Hộ cận nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 501.000 đồng đến 650.000 đồng/người/tháng.
1.2.2. Phương pháp tiếp cận và xác định chuẩn nghèo.
Phương pháp xác định chuẩn nghèo dựa vào nhu cầu chi tiêu.
Đây là phương pháp do chuyên gia Ngân hàng thế giới (World bank) đề xướng và cũng là phương pháp được nhiều quốc gia cũng như tổ chức quốc tế công nhận và sử dụng trong việc xác định chuẩn nghèo ở cấp quốc gia hoặc sử dụng trong các dự án lớn.
Nội dung cơ bản của phương pháp này là dựa vào nhu cầu chi tiêu để đảm bảo các nhu cầu cơ bản của con người về ăn, mặc, ở, văn hóa, y tế, giáo dục, đi lại và giao tiếp.
Ở phương pháp này, khi xác định người nghèo phải gắn chặt với việc tính thu nhập bình quân của hộ gia đình. Tuy vậy, tỷ lệ hộ nghèo không đồng nghĩa với tỷ lệ người nghèo; thông thường một quốc gia thì tỷ lệ người nghèo bao giờ cũng cao hơn tỷ lệ hộ nghèo.
Phương pháp xác định chuẩn nghèo dựa vào so sánh thu nhập bình quân đầu người của các hộ gia đình.
Phương pháp này cũng rất khoa học và tương đối đơn giản. Một số nước phát triển ở châu Âu và Mỹ đã sử dụng. Họ cho rằng người nghèo là những người không đủ để chi phí cho lương thực, thực phẩm và các dịch vụ xã hội. Do vậy, người ta xác định chuẩn nghèo bằng khoảng ½ thu nhập bình quân đầu người của các hộ gia đình trong cả nước. Tuy nhiên, Mỹ và Nhật Bản còn chia cụ thể cho các đối tượng khác nhau, cụ thể chuẩn nghèo năm 2001 ở Mỹ đối với một người sống một mình, không có người ăn theo dưới 65 tuổi là 8,494 USD; đối với gia đình 9 người là 38,223 USD; đối với gia đình 4 người là 17,940 USD.
Tuy nhiên, Trung tâm phát triển nguồn nhân lực Châu Á phối hợp với Trung tâm nghiên cứu dân số và nguồn lao động, Bộ LĐTBXH cho rằng: “theo quan niệm chung của nhiều nước, hộ nghèo có mức thu nhập dưới 1/3 mức trung bình của xã hội”
Qua nghiên cứu, việc lấy chuẩn nghèo bằng ½ hay 1/3 thu nhập bình quân đầu người của các hộ gia đình nghèo phụ thuộc vào trình độ phát triển của mỗi nước, song biên độ giao động của chuẩn nghèo sẽ nằm trong khoảng từ ½ đến 1/3 mức thu nhập bình quân.
Phương pháp điều chỉnh chuẩn nghèo.
Song song với 2 phương pháp xác định chuẩn nghèo cơ bản nêu trên, ta có 2 phương pháp điều chỉnh chuẩn nghèo theo từng thời kỳ phát triển kinh tế
- xã hội của quốc gia, vùng lãnh thổ.
- Phương pháp điều chỉnh chuẩn nghèo theo giá cả thực tế.
Phương pháp này phải điều chỉnh giá cả của rổ hàng hóa, giá cả các mặt hàng phi lương thực, thực phẩm cho phù hợp với thực tế. Thông thường 2 đến
3 năm người ta điều tra 1 lần và căn cứ vào kết quả điều tra điều chỉnh giá cả rổ hàng hóa và giá cả mặt hàng phi lương thực, thực phẩm cho phù hợp với tình hình thực tế. Tuy nhiên, nếu thời gian quá dài thì cũng phải xem xét điều chỉnh cơ cấu rổ hàng hóa.
Trường hợp nước ta những năm 90 của thập kỷ trước nhu cầu chi cho lương thực, thực phẩm (ăn) chiếm 70% tổng chi tiêu thì đến năm 2002 chi tiêu cho lương thực, thực phẩm chỉ chiếm 60% tổng chi tiêu, còn 40% là chi tiêu cho phi lương thực, thực phẩm.
- Phương pháp điều chỉnh chuẩn nghèo theo lạm phát.
Phương pháp này rất đơn giản và dễ tính. Các nước phát triển như Mỹ, Châu âu hay sử dụng phương pháp này: họ lấy chuẩn nghèo đã được xác định, nhân với chỉ số lạm phát cùng thời kỳ twuong ứng ban hành chuẩn nghèo để có chuẩn nghèo mới.
Thông thường, các nước phát triển tốc độ lạm phát rất thấp, chỉ 1 – 2% một năm, do vậy có khi 5 đến 7 năm họ mới điều chỉnh chuẩn nghèo 1 lần.
1.3. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá nghèo.
1.3.1. Khái niệm hệ thống chỉ tiêu.
Hệ thống chỉ tiêu có thể được hiểu là hệ thống các chỉ số mà con người đặt ra trên cơ sở thực tiễn các mục tiêu nghiên cứu hay hoạt động thực tiễn trong một lĩnh vực nào đó, nhằm để đánh giá các đối tượng nghiên cứu hay kết quả của hoạt động thực tiễn. Nó là hệ thống các thước đo để xem xét, đánh giá kết quả của một hoạt động thực tiễn một cách toàn diện, có hệ thống, phù hợp với mục tiêu và yêu cầu đặt ra.
Hệ thống chỉ tiêu đánh giá nghèo là hệ thống các chỉ số mà trong quá trình nghiên cứu nghèo hay thực tiễn hoạt động giảm nghèo đưa ra để nghiên cứu, đánh giá kết quả các hoạt động liên quan đến nghèo và giảm nghèo nhằm đạt các mục tiêu nghiên cứu hay hoạt động thực tiễn mà chúng ta đặt ra.
Hệ thống chỉ tiêu đánh giá nghèo cho phép lập các kế hoạch thực hiện cũng như đặt ra các mục tiêu cụ thể cho hoạt động giảm nghèo.
Nghèo là một hiện tượng xã hội phức tạp, nó thay đổi theo không gian và thời gian, vì vậy hệ thống chỉ tiêu đánh giá phải đảm bảo tính phù hợp với từng gia đoạn và phạm vi áp dụng. Vì vậy, hệ thống chỉ tiêu cần phải đảm bảo được tính khoa học và tính thực tiễn.
1.3.2. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá nghèo.
Để đánh giá nghèo, người ta thường sử dụng khái niệm nghèo tuyệt đối vì nó cho phép thực hiện các phân tích có tính so sánh. Nghèo tương đối được coi là tiêu chuẩn đánh giá sự công bằng của xã hội đối với một bộ phận dân cư có thu nhập thấp. Các chỉ tiêu thường dùng để phân tích nghèo như sau:
1.3.2.1. Khoảng cách (lần).
Đo lường mức độ cách biệt (khoảng cách) về thu nhập/chi tiêu giữa 20% hoặc 10% nhóm giàu nhất và 20% hoặc 10% nhóm nghèo nhất. Khoảng cách càng lớn, mức độ bất bình đẳng càng cáo và ngược lại.
Việc chia dân số thành 5 nhóm thu nhập/chi tiêu hoặc nhóm, tùy thuộc vào mục tiêu nghiên cứu.
Theo báo cáo của Cục thống kê Quốc gia Việt Nam cho thấy, khoảng cách thu nhập giữa người giàu và nghèo tại Việt Nam đã tăng từ 8,9 lần trong năm 2008 lên 9,2 lần trong năm 2011.
Chỉ tiêu này còn có thể dùng để so sánh, phân tích theo vùng kinh tế, theo khu vực thành thị và nông thôn, theo dân tộc kinh và dân tộc thiểu số.
1.3.2.2. Hệ số GINI.
Là chỉ số phản ảnh mức độ bất bình đẳng về chi tiêu giữa nhóm giàu và nhóm nghèo. Chỉ số này dao động từ 0 đến 1, càng tiến gần đến 1 thì mức độ bất bình đẳng càng cao và càng về 0 thì càng bình đẳng.
Theo kết quả nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế của Đại học Liên Hiệp Quốc (UNU-WIDER)Chỉ số Gini-coefficient của Việt Nam, mặc dù thấp hơn một số nước trong khu vực như Malaysia, Thái Lan nhưng có dấu hiệu tăng đều qua các năm. Con số Gini-coefficient gần đây nhất của Việt Nam được công bố là vào năm 2010, ở mức 0,43, trong khi con số này vào năm 2004 là 0,413.
Tổng Cục Thống kê Việt Nam (GSO) cho biết, chỉ số Gini-coefficient trên 0,4 được xem là báo động ở mức nguy hiểm đối với khoảng cách thu nhập tại một quốc gia.
1.3.2.3. Tiêu chuẩn 40.
Theo WB, nếu 40% dân số có thu nhập thấp nhất, chiếm 12 – 17% tổng thu nhập của các hộ gia đình là bình đẳng, dưới 12% là bất bình đẳng, trên 17% là bình đẳng ở mức tốt; Việt Nam năm 1999 là 18,7%; năm 2004 là 17,8%.
1.3.2.4. Tỷ lệ nghèo và tỷ lệ hộ nghèo.
Là tỷ lệ phần trăm người nghèo/hộ nghèo so với tổng số hộ nghèo (toàn quốc, tỉnh, huyện, xã).
Trong khảo sát mức sống dân cư Việt Nam, người ta tính theo người nghèo, không tính theo hộ gia đình, vì hai chỉ tiêu này không đồng nhất.
1.3.2.5. Tỷ lệ tái nghèo.
Là tỷ lệ phần trăm số người nghèo/số hộ nghèo đã vượt chuẩn nghèo rơi xuống nghèo trong kỳ kế hoạch so với tổng số người nghèo/số hộ nghèo trên đị bàn.
1.3.2.6. Tỷ lệ thoát nghèo.
Là tỷ lệ phần trăm số người nghèo/hộ nghèo thoát nghèo (vượt chuẩn nghèo) trong kỳ kế hoạch so với tổng dân số/số hộ trên địa bàn; hoặc trong nhiều trường hợp người ta lại so với tổng số người nghèo/số hộ nghèo (khi tính hệ số co giãn giữa trăng trưởng và giảm nghèo).
1.3.2.7. Hệ số co giãn giữa trăng trưởng kinh tế và giảm nghèo.
Là tỷ lệ giữa tốc độ giảm nghèo và tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm (Trung Quốc là 1 – 08; Việt Nam là 1 – 0,95 giai đoạn 2003 – 1998 và 1 – 1,3 giai đoạn 1998 – 2004); hệ số này có mối quan hệ chặt và gần nhau thì chứng tỏ tăng trưởng kinh tế có lợi cho người nghèo.
1.3.2.8. Trong quá trình phân tích nghèo người ta còn sử dụng các chỉ tiêu khác để so sánh, phân tích như tỷ trọng người nghèo/hộ nghèo dân tộc thiểu số trong tổng tốn người nghèo/hộ nghèo trong từng giai đoạn.
1.3.2.9. Tốc độ tăng thu nhập/chi tiêu của nhóm hộ nghèo hàng năm; 5 năm và so sánh tốc độ tăng thu nhập/chi tiêu của nhóm hộ nghèo với tốc độ tăng thu nhập/chi tiêu của dân số và của nhóm hộ không nghèo.
1.3.2.10. Chỉ số nghèo của con người (HPI).
Đây là chỉ tiêu tổng hợp được Tổ chức phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) sử dụng và công bố lần đầu tiên vào năm 1997. Nó là chỉ tiêu mang tính tổng hợp và có tính khái quát cao, phản ánh bản chất và tính đa dạng của nghèo.
HPI là chỉ số đo lường mức độ nghèo khổ của con người trên ba phương diện cơ bản: tuổi thọ, hiểu biết và mức sống. Chỉ số này ở một quốc gia càng cao thì chứng tỏ tình trạng nghèo của quốc gia đó càng nghiêm trọng. Liên hợp Quốc sử dụng HPI-1 cho các nước đang phát triển, HPI-2 cho các nước OECD. Ở các nước đang phát triển, UNDP đưa ra công thức đo lường chỉ số này như sau:
Chỉ số HPI được tính toán theo công thức sau:
1
2
3
HPI-1 = [(P 3 + P 3 + P 3 ) / 3]1/3
Trong đó: P1: tỷ lệ người không sống đến 40 tuổi.
P2: tỷ lệ người lớn không biết chữ.
P3: tỷ lệ phần trăm dân số không được tiếp cận với nguồn nước sạch và tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng.
Với giá trị HPI = 26,2 (số liệu năm 1996, công bố tháng 7 năm 2007) Việt Nam đứng thứ 33 trong tổng số 78 nước đang phát triển đã tính toán được
chỉ số HPI. Giá trị HPI càng cao thì mức độ nghèo càng lớn; ngược lại HPI càng nhỏ thì mức độ nghèo càng thấp, nếu HPI về đến giá trị 0 thì về cơ bản quốc gia đó khoong còn tình trạng nghèo. Đấy là lập luận về mặt lý thuyết, còn trên thực tế chỉ có thể không còn người nghèo tuyệt đối, song không bao giờ hết nghèo tương đối do khoảng cách thu nhập và mức sống của các nhóm dân cư của từng quốc gia vẫn tồn tại.
Một điểm cần lưu ý là khi nghiên cứu chỉ tiêu HPI, có thể cảm giác nó không liên quan nhiều lắm tới nhu cầu chi tiêu hay thu nhập của gia đình, nhưng trên thực tế các chỉ tiêu thành phần của HPI có liên quan chặt chẽ đến nhu cầu chi tiêu và thu nhập của con người. Nếu thu nhập thấp, nhu cầu chi tiêu không đảm bảo sữ làm cho sự thiếu hụt trong việc tiếp cận đến các dịch vụ xã hội như y tế, giáo dục… tăng lên. Chính mối quan hệ đó nói lên bản chất và tính đa dạng của nghèo.
1.4. Công tác xã hội.
Có nhiều khái niệm công tác xã hội đã được đưa ra ở nhiều góc độ khác nhau và được xem như một khoa học, một nghệ thuật can thiệp đối với những vấn đề xã hội để tạo nên sự chuyển biến của xã hội.
Tại Đại hội liên đoàn công tác xã hội chuyên nghiệp quốc tế ở Canada năm 2004, Công tác xã hội được khẳng định là một hoạt động chuyên nghiệp nhằm tạo ra sự thay đổi, phát triển của xã hội bằng sự tham gia vào quá trình giải quyết các vấn đề xã hội, vào quá trình tăng cường năng lực và giải phóng tiềm năng cá nhân, gia đình và cộng đồng, Công tác xã hội giúp cho con người phát triển hài hòa và đem lại cuộc sống tốt đẹp cho mọi người dân.
Công tác xã hội ở Việt Nam được các tác giả xem xét từ những khía cạnh khác nhau và đi đến khái niệm Công tác xã hội là một nghê, một hoạt động chuyên nghiệp nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao năng lực đáp ứng nhu cầu và tăng cường chức năng xã hội, đồng thời thúc đẩy môi trường xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội góp phần đảm bảo an sinh xã hội.
1.5. Nhân viên xã hội.
Nhân viên xã hội được Hiệp hội các nhà công tác xã hội chuyên nghiệp quốc tế - IASW định nghĩa: “Nhân viên xã hội là người được đào tạo và trang bị các kiến thức và kỹ năng trong Công tác xã hội, họ có nhiệm vụ: trợ giúp các đối tượng nâng cao khả năng giải quyết và đối phó với vấn đề trong cuộc sông; tạo cơ hội để các đối tượng tiếp cận được nguồn lực cần thiết, thúc đẩy sự tương tác giữa các cá nhân, giữa cá nhân với môi trường tạo ảnh hưởng tới chính sách xã hội, các cơ quan, tổ chức vì lợi ích của cá nhân, gia đình nhóm và cộng đồng thông qua hoạt động nghiên cứu và hoạt động thực tiễn. “
Tại Việt Nam có thể gặp những khái niệm: cán bộ xã hội, cán sự xã hội, người trợ giúp... tất cả đều nhằm hướng về một khái niệm đó là nhân viên xã hội, đây là người thực thi các hoạt động nghề nghiệp của mình như:
- Trợ giúp cá nhân, gia đình giải quyết vấn đề khó khăn.
- Nối kết họ với các dịch vụ và nguồn lực trong xã hội.
- Thúc đẩy sự cung cấp dịch vụ trợ giúp và nguồn lực có hiệu quả.
Đội ngũ những người làm công tác xã hội tham gia vào các lĩnh vực rất đa dạng và phong phú như từ các cơ sở đào tạo, y tế, bộ máy quản lý nhà
nước, các tổ chức giúp đỡ cá nhân - gia đình - cộng đồng, các hoạt động kinh doanh cũng như các hoạt động công nghiệp. Công tác xã hội hướng đến các đối tượng đa dạng về lứa tuổi, dân tộc, trình độ học vấn, mức sống, tôn giáo, cũng như có những năng lực cá nhân và xã hội khác nhau. Công tác xã hội ngày nay đặt trọng tâm vào tổng thể và toàn bộ con người cũng như đặt nặng vai trò của gia đình - Gia đình được xem như trường hợp, yếu tố trọng tâm trong công tác xã hội. Công tác xã hội xem việc vận dụng các tài nguyên cộng đồng để giúp con người là rất quan trọng. Phải thừa nhận một điều “Nhân viên xã hội – tác nhân của sự thay đổi” là một cách nhìn đúng đắn nhằm có được một xã hội công bằng về giới, về quyền con người và hơn hết là mọi người trong cộng đồng đều vì mục đích chung là phát triển một nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
1.6. Các vai trò của nhân viên xã hội với công tác giảm nghèo.
Nhân viên xã hội có thể có nhiều vai trò, trong công tác giảm nghèo, một nhân viên xã hội có các vai trò chủ sau:
- Nhân viên xã hội đóng vai trò xúc tác.
Chất xúc tác luôn được hiểu là để gây ra sự tác động lên một quá trình làm cho quá trình đó diễn ra một cách nhanh chóng theo hướng tích cực. Trong công tác giảm nghèo, nhân viên xã hội cũng cần như một chất xúc tác, dựa trên những hành động phù hợp và có sự chọn lọc, sự tính toán kỹ càng, nhân viên xã hội trợ giúp cho thân chủ hoàn thành nhiệm vụ, giúp công tác giảm nghèo được thực hiện nhanh hơn.
- Nhân viên xã hội đóng vai trò là nhà giáo dục.
Điều mà tất cả những người dân trong cộng đồng cần biết đó là có được sự nhận thức mới, sự giác ngộ trong hành động, phân tích được các tình trạng và bối cảnh xã hội mà họ đang sống, tìm ra được nguyên nhân của vấn đề, đó là mong muốn của người dân mà chỉ nhân viên xã hội mới có thể đáp ứng được dưới vai trò là nhà giáo dục.
Nhân viên xã hội cần phải hướng dẫn người nghèo trong cộng đồng tham gia vào các tiến trình để giải quyết các vấn đề của mình, sự tham gia một cách có hiểu biết và theo tinh thần tự nguyện thực hiện GN chính là mục đích trong hoạt động giáo dục trong công tác GN.
Ngoài ra, nhân viên xã hội trong lĩnh vực GN còn có vai trò trợ giúp tất cả các thành viên trong cộng đồng tham gia vào việc xác định ảnh hưởng của nghèo đến đời sống xã hội, từ đó giúp cộng động chủ động tham gia, trợ giúp công tác giảm nghèo tại cộng đồng.
Để làm được điều này, nhân viên xã hội có thể tổ chức các buổi giao lưu cộng đồng, các buổi hội thảo… để tiếp xúc với cộng đồng và trong các buổi đó nhân viên công tác xã hội cần sử dụng các phương pháp tuyên truyền về công tác giảm nghèo một cách thuyết phục tới cộng đồng.
- Nhân viên công tác xã hội cùng với người nghèo lập kế hoạch.
Nhân viên xã hội không phải là người lập ra kế hoạch sau đó đưa cho người dân thực hiện mà ở đó nhân viên công tác xã hội cùng với người nghèo bàn bạc và đưa ra kế hoạch thực hiện cho phù hợp, lúc này nhân viên xã hội là người tham mưu, giúp người nghèo vạch ra những kế hoạch cụ thể, khoa học
để thoát nghèo, cũng như tham gia các chương trình giảm nghèo tại địa phương một cách có hiệu quả.
- Nhân viên xã hội đóng vai trò là người kết nối.
Là cầu nối giữa người nghèo, cộng đồng nghèo với các nguồn hỗ trợ. Trong công tác giảm nghèo, việc thu hút được nguồn lực từ bên ngoài trên cơ sở phát huy hết các nguồn nội lực để phát triển, vươn lên thoát nghèo là một cách thức đúng đắn và mang lại hiệu quả cao. Ngoài ra, nhân viên công tác xã hội liên kết để kết nối giữa những người dân trong cồng đồng với nhau tạo ra sự đoàn kết, cùng nhau thoát nghèo.
- Nhân viên xã hội là người huấn luyện
Điều người dân nghèo cần thiết là có được nhận thức mới, hiểu được thực trạng bản thân đang sống, tìm ra được nguyên nhân, các vấn đề để có ý thực vươn lên thoát nghèo. Tránh tư tưởng ỷ lại vào xã hội, ỷ lại vào người khác giúp đỡ.
Nhân viên xã hội còn phải là người tổ chức các lớp huấn luyện bồi dưỡng nhóm nòng cốt của cộng đồng, là người huấn luyện, tác viên phát triển, phải là người làm mẫu, huấn luyện các kĩ năng và cách làm cụ thể để người nghèo dễ học hỏi và làm theo. Nhân viên xã hội phải có các kỹ năng tổ chức các lớp tập huấn, sử dụng các phương pháp thông tin huấn luyện khác nhau bằng lời nói, chữ viết, hình ảnh để có thể cho truyền đạt cho người nghèo một cách dễ hiểu nhất.
- Nhân viên công tác xã hội là người nghiên cứu.
Nhân viên xã hội là người cùng với nhóm nòng cốt tìm hiểu, khảo sát và phân tích đặc điểm, tình hình và nhu cầu của người nghèo trong cộng đồng, giúp cộng đồng chuyển những phân tích, nghiên cứu được các chính sách cho phù hợp với tình hình của địa phương. Để từ đó có những biện pháp giúp đỡ người nghèo trong cộng đồng sao cho phù hợp và đưa ra được các chương trình hành động cho phù hợp và cụ thể.
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xu thế hội nhập hiện nay, những thách thức từ các vấn đề xã hội ngày càng lớn và chúng ta chỉ có thể phát triển được một cách bền vững khi kiểm soát được các vấn đề xã hội theo hướng tích cực nhất.
2. Vấn đề nghèo trên thế giới.
2.1. Thực trạng nghèo trên Thế giới.
Thực trạng nghèo trên thế giới đang diễn ra theo chiều hướng rất đáng báo động. Theo một nghiên cứu của WB, nguy cơ đối với người nghèo đang tiếp tục gia tăng trên quy mô toàn cầu, và tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm trong năm 2009 đã đẩy thêm 53 triệu người nữa rơi vào tình trạng nghèo, thêm vào con số 130-155 triệu người của năm 2008, khi giá nhiên liệu và thực phẩm tăng cao.
Suy thoái kinh tế dự kiến mỗi năm sẽ đe dọa thêm mạng sống của
200.000 đến 400.000 trẻ em trong giai đoạn 2010-2015, theo đó 1,4 đến 2,8 triệu trẻ em có thể bị tử vong nếu khủng hoảng tiếp diễn.
Chỉ số nghèo toàn cầu (GHI) được đánh giá trên 3 dấu hiệu cơ bản: tỉ lệ người thiếu ăn, mức độ phổ biến tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5
tuổi; tỉ lệ tử vong của trẻ em dưới 5 tuổi. Nhìn chung, trong những năm từ 1990 đến 2009, GHI trung bình của thế giới đã giảm gần 1/5. Nhiều quốc gia đã giải quyết tốt vấn đề dinh dưỡng cho trẻ em. Tuy nhiên, tỉ lệ tử vong của trẻ em dưới 5 tuổi và tỉ lệ người thiếu ăn vẫn còn khá cao.
Nghèo giết chết hơn 30.000 trẻ dưới 5 tuổi trên khắp thế giới mỗi ngày, báo cáo của Manos Unidas - một tổ chức phi chính phủ (NGO) Tây Ban Nha, Manos Unidas (United Hands) cho biết điều này có nghĩa là có khoảng 11 triệu trẻ em chết mỗi năm vì nghèo, trong đó có 7 triệu trẻ dưới 5 tuổi; 130 triệu trẻ không được đi học và 82 triệu trẻ bị mất tuổi thơ bởi phải kết hôn quá sớm.
Báo cáo của Manos Unidas cũng cho hay hiện có 15 triệu trẻ em trên thế giới bị mồ côi vì AIDS, đa số rơi vào trẻ ở Nam Phi; 246 triệu trẻ phải đi làm khi chưa đủ tuổi lao động, trong đó có 72 triệu trẻ dưới 10 tuổi. Trong khi đó, theo ước tính của Liên Hiệp Quốc, có khoảng 100 triệu trẻ em trên thế giới không có nhà cửa và đang sống trên các đường phố. Trước thực trạng này, Liên Hiệp Quốc (LHQ) kêu gọi các nước cải thiện điều kiện y tế và vệ sinh, giảm tỉ lệ tử vong của trẻ em, cải thiện tình trạng nghèo và tạo điều kiện cho trẻ em phổ cập giáo dục tiểu học.
Năm 2000, các nước trên thế giới đã thống nhất đề ra mục tiêu này, theo đó giảm một nửa số người nghèo vào năm 2015. Tuy nhiên, trong bối cảnh các cuộc khủng hoảng lương thực, tài chính diễn ra liên tiếp đẩy số người nghèo tăng cao như hiện nay, đối với nhiều nước, mục tiêu này là bất khả thi.
Báo cáo của "Sodexho Foundation", một tổ chức từ thiện chuyên theo dõi về nạn nghèo ở Mỹ, cho biết, nạn nghèo ở nước này trong nhiều năm qua không giảm mà còn có chiều hướng tăng. Theo thống kê, trong năm 2005,
toàn nước Mỹ có khoảng 35 triệu người thường xuyên không đủ ăn, phải sống dựa vào các nguồn từ thiện. Trong 90 tỉ USD chi cho người nghèo hàng năm, tới 66,7 tỉ USD dành cho y tế và chữa bệnh; 14,5 tỉ USD chi dưới các dạng tem phiếu hoặc các suất ăn từ thiện hàng ngày; 9,2 tỉ USD bị thiệt hại do năng suất lao động giảm.
Tổ chức từ thiện Finn Care của Anh công bố một nghiên cứu cho thấy khoảng 12,5 triệu người Anh, tức 20% dân số nước này, đang sống dưới mức nghèo (theo chuẩn của Anh). Đây là thực tế đáng ngạc nhiên bởi Anh vốn được xem là nền kinh tế lớn thứ tư thế giới. Hơn 140 triệu người ở châu Á bị đẩy vào tình trạng cực kỳ nghèo trong năm 2009 khi nạn thất nghiệp gia tăng do suy thoái kinh tế toàn cầu. Đó là cảnh báo của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) trong bản báo cáo mang tên The Fallout in Asia được công bố ngày 18/2/2010.
Theo nhận định của ông Kuroda (Chủ tịch Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), khoảng 620 triệu người ở châu Á sống dưới mức 1USD/ngày. Ít nhất một nửa và trong số này lần lượt sống ở Ấn Độ và Trung Quốc - 2 nước có nền kinh tế đang phát triển mạnh.
Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, châu Phi là châu lục có tỉ lệ thanh niên thất nghiệp cao nhất thế giới (25,6% ở khu vực Trung Đông và Bắc Phi). Thất nghiệp là một trong những vấn đề chủ chốt gây ra nạn nghèo của lục địa Đen và ảnh hưởng tiêu cực đến các chương trình và các kế hoạch phát triển, với tỉ lệ tăng 10% mỗi năm. 32 trong số 38 nước nghèo nhất thế giới là thuộc châu Phi. Số tiền nợ của châu Phi lên tới 425 tỉ USD. Tuổi thọ trung bình ở châu Phi thấp nhất thế giới, 45 tuổi. Chỉ có 58% số người dân châu Phi được dùng nước sạch.
Từ vài thập kỷ nay, tỉ lệ mù chữ tại châu Phi gia tăng, chiếm khoảng 40% số dân châu Phi ở độ tuổi 15 và chiếm hơn 50% số phụ nữ ở độ tuổi 25. Từ nhiều năm nay, châu Phi đã phải gánh chịu một vấn đề kinh niên là vấn đề người tị nạn. Theo các con số chính thức, tại châu Phi có hơn 7 triệu người tị nạn và hơn 20 triệu người không có nhà cửa do hàng loạt các cuộc xung đột và nội chiến gây ra và đã để lại một hậu quả nặng nề về nạn đói, nạn suy dinh dưỡng và kinh tế bị đình trệ.
Châu Phi đang phải đối mặt với nạn hạn hán kinh niên và bị thiếu nước sạch thường xuyên, điều này đã và đang cản trở sự phát triển của châu lục này. Tình trạng không được sử dụng nước sạch và mất vệ sinh đã gây ra những hậu quả tai hại và là nguồn gây ra các bệnh dịch trên toàn châu Phi. Mặc dù trong những năm qua, các nước châu Phi đã đạt được những tiến bộ về việc cung cấp nước sạch và điều kiện vệ sinh, song những mục tiêu phát triển thiên niên kỷ vẫn chưa đạt được.
Nghèo khổ đã trở thành thách thức lớn, đe dọa đến sự sống còn, ổn định và phát triển của thế giới và nhân loại. Sở dĩ như vậy bởi vì thế giới là một chỉnh thể thống nhất, và mỗi quốc gia là một chủ thể trong chính thể thống nhất ấy. Toàn cầu hóa đã trở thành cầu nối liên kết các quốc gia lại với nhau, các quốc gia có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, sự ổn định và phát triển của một quốc gia có ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc đến sự ổn định và phát triển của các quốc gia khác.
Nghèo khổ đe dọa đến sự sống của loài người bởi "nghèo khổ đã trở thành một vấn đề toàn cầu có ý nghĩa chính trị đặc biệt quan trọng, nó là nhân tố có khả năng gây bùng nổ những bất ổn chính trị, xã hội và nếu trầm trọng hơn có thể dẫn tới bạo động và chiến tranh" không chỉ trong phạm vi một
quốc gia mà là cả thế giới. Bởi, những bất công và nghèo thực sự đã trở thành những mâu thuẫn gay gắt trong quan hệ quốc tế; và nếu những mâu thuẫn này không được giải quyết một cách thỏa đáng bằng con đường hòa bình thì tất yếu sẽ nổ ra chiến tranh.
Mặt khác, vấn đề nghèo còn ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của nhân loại. Thay vì con người có thể tập trung toàn bộ nguồn lực cho phát triển, thì một phần lớn nguồn lực đó phải dành ra để giải quyết vấn đề nghèo và các vấn đề toàn cầu khác do nghèo mang lại. Nghèo, bất công là nguyên nhân của tội phạm quốc tế (khủng bố, nạn buôn bán ma túy và rửa tiền); nghèo cộng với thiếu hiểu biết kéo theo đó là gia tăng dân số, cạn kiệt nguồn nước, khan hiếm nguồn năng lượng (do sự gia tăng nhanh chóng những hoạt động kinh tế của con người); lương thực, thực phẩm ngày càng thiếu hụt; bệnh tật (nhất là đại dịch HIV/AIDS) ngày càng lan tràn, khó kiếm soát; môi trường sống bị ô nhiễm nghiêm trọng và vấn đề di dân tự do đang ngày càng trở nên phức tạp.
Như vậy, nghèo là một trong những nguyên nhân đang trực tiếp đe dọa đến sự tồn vong và phát triển của loài người. Tác động của nó trong quan hệ quốc tế là rất lớn và vì vậy vấn đề này không phải của một quốc gia riêng lẻ nào mà là của toàn nhân loại, đòi hỏi thế giới phải chung tay để giải quyết một cách triệt để và toàn diện. Ngăn chặn tình trạng nghèo sẽ không chỉ giúp nâng cao cuộc sống tại các nước đang phát triển mà còn mang lại sự bảo đảm về an ninh cho các nước giàu.
Xin trích lời của ông Jacques Diouf, Giám đốc Tổ chức Nông - Lương thế giới: "Để có thể loại trừ nạn đói này mỗi năm phải có ngân khoản 30 tỉ mỹ kim, tức 8% ngân khoản mà các nước kỹ nghệ tân tiến đã yểm trợ cho ngành
nông nghiệp của họ; và thực ra nó không là gì cả đối với số tiền các chính quyền dành cho việc mua sắm khí giới hay để chống lại cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới hiện nay".
Dẫu biết rằng đó chỉ là so sánh trên con số chứ không thể đem ra đo đếm trong hiện thực nhưng vẫn cho chúng ta biết được rằng nghèo là vấn đề mà nếu các quốc gia trên thế giới một lòng quan tâm và dốc sức vào nó thì nó không thể không bị đẩy lùi. Thiên tai, biến động kinh tế, chính trị vẫn xảy ra hàng năm và những người dân nghèo là những người hứng chịu hậu quả rõ rệt nhất, đặc biệt là trẻ em: đói như nỗi lo thường trực đánh cắp mất quyền hòa nhập vào cuộc sống bình thường như công dân thế kỷ XXI của những con người khốn khổ.