Quản lý hoạt động nghệ thuật chèo tại thành phố Hải Phòng trong giai đoạn hiện nay - 2


phường gánh truyền thống, trong không gian văn hóa làng, nay đã đến lúc phải bước chân “ra tỉnh”, là thành thị kiểu Tây. Do vậy, nghệ thuật chèo sân đình buộc phải có sự chuyển biến và thích ứng về mọi phương diện sân khấu, trong không gian mới – không gian thị thành.

Khi làn gió phương Tây từ Pháp thổi đến, các đô thị kiểu Tây, các nhà hát kiểu Tây được xây dựng lần lượt từ Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng, thì sân khấu chèo cổ buộc phải từ làng quê ra tỉnh, bước vào sân khấu hộp của các nhà hát, rạp hát kiểu Tây và buộc phải biến đổi, thành “chèo văn minh” và “chèo cải lương”. Từ đây, những gánh hát chèo trong hội hè, đình đám đã phải bắt đầu với mô hình hiện đại tại các thành phố kiểu Tây như Hà Nội, Hải Phòng. Sự xuất hiện chèo văn minh, chèo cải lương do Nguyễn Đình Nghị chủ trương biến hóa cho thích ững với thị thành, với hàng chục vở diễn phản ánh chân thực cuộc sống theo lối mới, là minh chứng cho quá trình vận động, biến đổi để thích nghi, tồn tại của chèo trong giai đoạn lịch sử này. Tuy nhiên, dù được các nhà sáng lập cùng nghệ nhân chèo đã tốn nhiều tâm huyết, tiền bạc và công sức, nhưng do hạn chế bởi lịch sử và nghệ thuật nên thành công của chèo văn minh, chèo cải lương chỉ thực sự bừng sáng trong khoảng thời gian trên dưới mười năm (từ năm 1923 đến năm 1933). Mặc dù chưa thỏa nguyện với bản thân và nhu cầu xã hội, nhưng di sản của các nhà làm chèo văn minh, chèo cải lương để lại cho hậu thế thật đáng trân trọng, bởi những cách tân nghệ thuật chèo, đã thích ứng với sự biến đổi của hoàn cảnh văn hóa, và cũng là những bài học kinh nghiệm vô giá đối với thế hệ làm chèo sau này.

Cách mạng Tháng Tám thành công, lịch sử dân tộc Việt Nam sang trang mới. Sau năm 1950, nghệ thuật chèo lại đồng hành cùng dân tộc đi qua các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, góp phần vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.


Tuy nhiên, trong suốt khoảng thời gian từ năm 1950 đến cuối thế kỷ XX, mặc dù được xem là thời kỳ phát triển rực rỡ về số lượng đơn vị nghệ thuật và vở diễn, nhưng nghệ thuật chèo cũng phải chịu không ít thăng trầm bởi sự cạnh tranh với các loại hình sân khấu truyền thống khác như: tuồng, múa rối nước…Nhất là khi loại hình chèo buộc phải cạnh tranh với thể loại kịch hiện đại, đã theo cuộc giao lưu với văn hóa Pháp du nhập Việt Nam và được Việt hóa từ nửa đầu thế kỷ XX. Khán giả bị phân lập và khán giả xem vở diễn thể loại kịch bao giờ cũng chiếm tỉ lệ áp đảo so với tuồng, chèo. Bên cạnh đó, là các cuộc tranh luận về học thuật và định hướng bảo tồn, phát huy và phát triển nghệ thuật chèo…Nhiều câu hỏi xoay quanh vấn đề bảo tồn sân khấu chèo như: bảo tồn cái gì, bảo tồn và phát huy như thế nào, tổ chức và quản lý sân khấu chèo ra sao để thu hút người xem chèo ở các đô thị lớn…vẫn chưa có lời giải đáp thỏa đáng.

Rò ràng, trong mỗi giai đoạn lịch sử, bằng mọi cách, chèo luôn cố gắng bảo tồn, phát huy giá trị nghệ thuật để đi cùng với người xem đương thời bằng chính bản chất truyền thống của sân khấu chèo cổ truyền. Tuy nhiên, do tác động của môi trường văn hóa xã hội luôn biến đổi theo thời cuộc, nên sự nghiệp bảo tồn, phát huy, phát triển nghệ thuật chèo vẫn luôn dành lại khoảng trống nghiên cứu cho thế hệ sau. Bởi, chèo không chỉ là loại hình sân khấu truyền thống của người Việt mà nó còn chứa đựng nhiều giá trị độc đáo về nghệ thuật trình diễn sân khấu. Bởi vậy, làm tốt công tác tổ chức, quản lý bảo tồn, phát huy giá trị nghệ thuật chèo cũng chính là góp phần thiết thực vào việc giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc.

Ngày nay, trong môi trường toàn cầu hóa và kinh tế thị trường, cũng như một số hình thức văn nghệ cổ truyền khác, chèo đang đứng trước nguy cơ mai một, “xuống giá”, “mất giá” trong sự khủng hoảng công chúng, nhất là công chúng trẻ ở các đô thị. Sự thiếu vắng một chiến lược phát triển riêng cho chèo trong chiến lược chung của phát triển sân khấu Việt Nam hiện đại,


đã là một sự thật. Sau đó là sự thiếu vắng riêng của chèo về đội ngũ tác giả, đạo diễn, diễn viên tài năng. Đặc biệt là sự thiếu vắng khán giả chèo càng khiến cho người làm chèo và các nhà quản lý văn hóa đối với nghệ thuật chèo không khỏi lo âu và trăn trở. Vẫn biết rằng trong bối cảnh giao lưu văn hóa hôm nay, nhất là trong thế kỷ XXI, trước sự phát triển của khoa học công nghệ và sự đa dạng về văn hóa nghệ thuật, thì sự khủng hoảng khán giả, với riêng sân khấu chèo và sân khấu Việt Nam hiện đại nói chung là không tránh khỏi. Song phải thừa nhận rằng, bên cạnh lý do khách quan còn có nguyên nhân chủ quan, trong đó có bất cập từ cơ chế quản lý bao cấp, sự thiếu sót trong định hướng, chỉ đạo thực hiện của các cơ quan quản lý nhà nước và có cả trách nhiệm của người nghệ sĩ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 226 trang tài liệu này.

Nhiều năm qua, vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật sân khấu truyền thống đã được Đảng và Nhà nước đặt ra và xác định là mục tiêu văn hóa quan trọng. Đã có các hội thảo khoa học bàn luận về vấn đề này, nhưng vẫn chưa tìm được giải pháp có giá trị khoa học để tác động và điều chỉnh được thực tiễn đời sống nghệ thuật.

Vì vậy, việc tổ chức, quản lý hoạt động biểu diễn nhằm bảo tồn, phát huy giá trị đặc thù của các loại hình nghệ thuật truyền thống còn lúng túng, bế tắc, thậm chí nhiều nơi không biết cách thực hiện, công tác tổ chức và quản lý việc bảo tồn, phát huy, phát triển chèo đi vào ngò cụt, chưa tìm được giải pháp khả thi. Mặt khác, tác động từ mặt trái cơ chế thị trường cũng khiến nghệ thuật chèo ngày càng mất thị phần trong đời sống văn nghệ hiện đại… Trước thực trạng trên, là một cán bộ đã có gần 30 năm hoạt động trong

Quản lý hoạt động nghệ thuật chèo tại thành phố Hải Phòng trong giai đoạn hiện nay - 2

lĩnh vực biểu diễn, quản lý và nghiên cứu nghệ thuật chèo, tôi luôn đau đáu với câu hỏi: “Làm thế nào để tổ chức, quản lý, điều hành hoạt động nghệ thuật chèo, nhằm bảo tồn, phát huy giá trị nghệ thuật chèo, nhất là trong mấy thập niên đầu thế kỷ XXI và trong khung cảnh đô thị thời kinh tế thị trường, ở một thành phố cảng biển sầm uất như Hải Phòng?”. Đặc biệt, là người làm công tác quản lý tại


Sở Văn hóa và Thể thao Hải Phòng, tôi càng mong muốn quản lý tốt việc tổ chức thực hiện và phát triển hoạt động nghệ thuật chèo cho Hải Phòng. Bởi Hải Phòng ngày nay vốn là vùng đất thuộc về một trong bốn chiếng chèo nổi tiếng xưa nay

- chiếng chèo xứ Đông. Và hiện nay, công chúng Hải Phòng vẫn yêu thích chèo và không muốn xa rời nghệ thuật này.

Từ nhận thức và trải nghiệm công tác của bản thân, và cũng từ góc độ quản lý văn hóa - nghệ thuật, NCS quyết định chọn đề tài Quản lý hoạt động nghệ thuật chèo tại thành phố Hải Phòng trong giai đoạn hiện nay làm đề tài luận án tiến sĩ.

Hy vọng, đề tài sẽ đóng góp nhất định cả về lý luận và về thực tiễn trong hoạt động bảo tồn và phát huy những giá trị của nghệ thuật chèo trong đời sống xã hội ở Hải Phòng nói riêng và ở các đô thị hiện nay, trong vùng văn hóa Bắc Bộ.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở lý thuyết và quan điểm nghiên cứu đặc thù, luận án đánh giá thực trạng công tác quản lý hoạt động nghệ thuật chèo ở thành phố Hải Phòng, nhằm đưa ra các giải pháp thích hợp thực hiện tốt công tác này.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

(1). Hệ thống hóa cơ sở lý luận và tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến quản lý hoạt động nghệ thuật chèo.

(2). Đánh giá thực trạng công tác quản lý hoạt động nghệ thuật chèo chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp tại Hải Phòng.

(3). Xác định giải pháp quản lý hoạt động nghệ thuật chèo tại thành phố Hải Phòng.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là hoạt động quản lý, tổ chức, điều


hành hoạt động biểu diễn, thưởng thức nghệ thuật chèo tại thành phố Hải Phòng.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Không gian nghiên cứu: nghệ thuật chèo tại thành phố Hải Phòng và đặt trong không gian văn hóa của vùng văn hóa Bắc Bộ ( chèo được sinh ra trong chính vùng văn hoá Bắc Bộ).

- Thời gian nghiên cứu: Từ năm 1998 (năm ban hành Nghị quyết Trung ương 5, khoá VIII) đến năm 2021.

4. Câu hỏi nghiên cứu

(1). Nội dung quản lý hoạt động nghệ thuật chèo tại thành phố Hải Phòng giai đoạn hiện nay là gì?

(2). Thực trạng công tác quản lý hoạt động nghệ thuật chèo tại thành phố Hải Phòng hiện nay như thế nào?

(3). Những giải pháp nào là khả thi nhất để quản lý hoạt động nghệ thuật chèo nhằm bảo tồn và phát huy nghệ thuật chèo tại thành phố Hải Phòng trong giai đoạn hiện nay?

Ba câu hỏi trên chính là điểm tựa để hình thành đề tài của luận án và cũng chính là ba vấn đề nghiên cứu căn cơ mà luận án cần phải giải quyết.

5. Giả thuyết nghiên cứu

Hiện nay, một số địa phương, trong đó có thành phố Hải Phòng đã quản lý khá tốt hoạt động của các loại hình nghệ thuật truyền thống, trong đó có nghệ thuật chèo. Tuy nhiên, dù đã có kết quả nhất định nhưng do chưa được triển khai một cách đồng bộ, triệt để, khoa học, cho đến nay hoạt động của nghệ thuật chèo (cả chuyên nghiệp và không chuyên) vẫn gặp rất nhiều khó khăn, chưa đạt được kết quả như mong muốn. Việc bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật chèo tại Hải Phòng chưa được quan tâm đúng mức và chưa được giải quyết thỏa đáng.

Để có thể bảo tồn nghệ thuật chèo và phát huy được giá trị tốt đẹp của nó trong cuộc sống đô thị hiện đại hôm nay, cần có phương pháp tổ chức,


quản lý văn hóa nghệ thuật phù hợp, cùng những giải pháp căn cơ mang tính chiến lược, nhằm bảo tồn, phát huy và phát triển nghệ thuật chèo, để phục vụ nhu cầu thưởng thức sân khấu của công chúng trong sự phát triển hiện đại của thành phố cảng biển Hải Phòng hiện đang tiến tới thập niên thứ 3 của thế kỷ XXI.

Muốn vậy, trước tiên cần có biện pháp triển khai đồng bộ từ phía các cơ quan lãnh đạo, cơ quan quản lý các cấp của thành phố để đưa nghệ thuật chèo từng bước trở thành hoạt động thường niên trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng, lấy lại khán giả cho sân khấu hiện đại nói chung và sân khấu chèo nói riêng, đồng thời gắn kết, phát triển song hành với các hoạt động giáo dục, kinh tế, xã hội khác...

6. Phương pháp tiếp cận và phương pháp nghiên cứu

6.1. Phương pháp tiếp cận liên ngành

Chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống, được bảo tồn và phát huy, phát triển trong lịch sử vận hành của toàn bộ nền sân khấu Việt Nam, từ truyền thống đến hiện đại. Bản chất của sân khấu nói chung là đa diện và đa dạng, có quan hệ mật thiết với tất cả các mặt hoạt động của đời sống xã hội, nên nó phải là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học như: xã hội, kinh tế, lịch sử, văn hóa, nghệ thuật. Bởi vậy, NCS đã chọn phương pháp nghiên cứu liên ngành văn hóa – nghệ thuật làm phương pháp nghiên cứu cơ bản. Sử dụng phương pháp nghiên cứu này, NCS đặt nghệ thuật chèo vào vùng văn hóa Bắc Bộ, nơi đã phát tích và hoàn thiện chèo từ diễn xướng dân gian trong lễ hội nông nghiệp đến loại hình sân khấu chèo, với các tích diễn, trò diễn của vở diễn chèo, với các mô hình nhân vật Đào – Kép – Lão – Mụ - Hề, trên cơ sở nguyên tắc ước lệ - đặc thù của sân khấu chèo cổ sân đình. Phương pháp liên ngành này đã giúp NCS có thể nhận diện nghệ thuật chèo đầy đủ và sâu sắc, phân tích được giá trị văn hoá, giá trị sân khấu của nghệ thuật chèo đối với đời sống xã hội Việt Nam từ truyền thống


đến hiện đại, đồng thời đặt nó trong bối cảnh, văn hoá của xã hội Việt Nam hiện đại - thời kinh tế thị trường đầu thế kỷ XXI…Từ đó đưa ra những giải pháp bảo tồn, phát huy, phát triển các giá trị tiêu biểu của nghệ thuật chèo, nhằm phục vụ nhu cầu hưởng thụ văn hoá nghệ thuật của đông đảo công chúng trong xã hội Việt Nam hiện đại.

6.2. Phương pháp nghiên cứu

Bên cạnh phương pháp nghiên cứu liên ngành là cơ bản, luận án còn sử dụng các phương pháp hỗ trợ:

- Phương pháp điều tra xã hội học (thông qua các phiếu hỏi, bảng hỏi, phiếu phỏng vấn sâu): Đây là phương pháp được nghiên cứu sinh sử dụng nhiều trong luận án này. Thông qua các phiếu hỏi, bảng hỏi đã tổng hợp thu thập được tư liệu xác thực, cập nhật về hiện trạng nghệ thuật chèo và công tác bảo tồn và phát huy giá trị của nó trong giai đoạn hiện nay. Từ đó, NCS có thêm cơ sở thực tiễn để thực hiện luận án. Thuận lợi khi thực hiện phương án này là nhận được sự hợp tác tích cực của những người làm công tác quản lý các Nhà hát, bấy lâu nay luôn tâm huyết, hết mình với hoạt động biểu diễn nghệ thuật chèo nhưng cũng luôn đau đáu với công tác bảo tồn, phát triển bộ môn này trong đời sống hiện đại, chưa tìm được giải pháp thực hiện công tác này hiệu quả. Do nghiên cứu sinh đã nhận được sự hợp tác tích cực, mong muốn luận án sẽ đưa ra những giải pháp khả thi để có thể áp dụng với các đoàn nghệ thuật. Khó khăn của phương pháp này là việc thực hiện điều tra, bảng hỏi dành cho nhiều đối tượng ở nhiều địa bàn khác nhau, đòi hỏi thời gian, cũng như cần sự giúp đỡ tích cực của người được điều tra.

Việc sử dụng phiếu phỏng vấn sâu đối với đội ngũ các nghệ sĩ, các tác giả, đạo diễn, các nhà phê bình, lý luận về nghệ thuật chèo, và một số nhà quản lý, khán giả...để khai thác thông tin, ý kiến đánh giá, giải pháp mang tính cá nhân của người làm công tác nghiên cứu, lý luận, quản lý nhà nước về di sản văn hóa, quản lý trực tiếp đoàn nghệ thuật chèo...Từ đó giúp nghiên cứu sinh


đánh giá toàn diện những khó khăn, thuận lợi, những vấn đề cần đặt ra trong công tác tổ chức quản lý nghệ thuật chèo, nhằm bảo tồn và phát huy, phát triển giá trị nghệ thuật chèo trong giai đoạn phát triển hiện đại của Việt Nam thế kỷ XXI hiện nay. Phương pháp này cần sự tổng hợp, khái quát của NCS để đưa các ý kiến trả lời phỏng vấn vào các nhóm nội dung luận án cho phù hợp, đảm bảo đã hiểu đúng, đủ nội dung trả lời của người được phỏng vấn.

- Phương pháp phân tích – tổng hợp:

Thực hiện luận án, NCS đã phân tích những trường hợp cụ thể của hoạt động nghệ thuật chèo, như: nhu cầu, tâm lý khán giả ở mỗi điểm diễn; các yếu tố tác động tới hoạt động bảo tồn và phát triển nghệ thuật chèo, từ đó rút ra những luận điểm khoa học. Đồng thời nghiên cứu các tài liệu liên quan đến nghệ thuật chèo, các văn bản, chính sách của Nhà nước, các địa phương về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá. Hiệu quả của phương pháp này là nhận thức rò được quan điểm của Đảng và Nhà nước, của các nhà nghiên cứu đối với hoạt động bảo tồn nghệ thuật chèo, tổng hợp, phân tích, dự báo được các yếu tố tác động đến công tác này theo trình tự thời gian.

- Phương pháp thống kê và xử lý số liệu bằng thống kê toán học:

Được NCS sử dụng trong luận án khi tiến hành các hoạt động thống kê số liệu về dân cư, địa điểm du lịch, số lượng đêm diễn và khán giả ... để phục vụ nghiên cứu. Trên cơ sở xử lý số liệu bằng thống kê toán học, NCS đưa ra nhận xét, đánh giá, lý giải nguyên nhân, đồng thời đưa ra các biện pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động bảo tồn nghệ thuật chèo. Tuy nhiên, phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học không phải là thế mạnh của những người nghiên cứu khoa học xã hội nói chung.

- Phương pháp điền dã: Bằng cách quan sát công tác biểu diễn, tập luyện, dàn dựng, bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật chèo tại một số Nhà hát chèo trên cả nước. Sử dụng phương pháp này, NCS đã xâm nhập thực tế ở nhiều đoàn nghệ thuật thuộc nhiều địa phương khác nhau. Từ đó có cách

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 10/06/2022