Phát triển tư nhân ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp - 12


Thực hiện phân cấp quản lý theo hướng ủy nhiệm thu cho các phường, xã đối với các hộ kinh doanh nhỏ nhằm nâng cao trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc quản lý đối tượng nộp thuế. Thực hiện tốt việc phân cấp, ngành thuế sẽ giảm được đầu mối để tập trung thời gian vào quản lý và kiểm tra các cơ sở kinh doanh lớn.

Thứ ba, tăng cường công tác bồi dưỡng cán bộ quản lý thuế

Chính sách thuế dù có tốt đến mức nào, nếu không chú ý nâng cao trình độ chuyên môn, đạo đức của các ban quản lý thuế, đặc biệt là bộ phân trực tiếp quản lý thuế đối với các doanh nghiệp thì chính sách thuế không thể hoàn thành vai trò của nó, vì vậy cần phải:

- Bố trí, sắp xếp lại cán bộ nhằm quản lý sâu sát và gắn trách nhiệm với công việc được giao. Thực hiện luân chuyển địa bàn quản lý giữa các nhóm và cán bộ, tiến tới xóa bỏ cán bộ chuyên quản.

- Coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ chuyên môn và tiêu chuẩn đạo đức cho đội ngũ cán bộ thuế, nhằm giúp cho cán bộ quản lý thuế các doanh nghiệp nắm vững chế độ, chính sách, biết cách giải thích và thuyết phục đối tượng nộp thuế tự giác chấp hành nộp thuế.

3.4.5. Tăng cường công tác hỗ trợ thông tin và xúc tiến thương mại đối với kinh tế tư nhân

Nhìn chung chất lượng những thông tin thu thập được của kinh tế tư nhân là chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển và hội nhập, đặc biệt là những thông tin về thị trường. Bản thân từng doanh nghiệp lại gặp nhiều khó khăn trong việc giải quyết vấn đề này. Để giúp cho kinh tế tư nhân nâng cao chất lượng nguồn thông tin và xúc tiến thương mại một cách hiệu quả, chúng ta cần thực hiện một số giải pháp sau:


Thứ nhất, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân tiếp cận thông tin và đẩy mạnh cung cấp thông tin thị trường cho doanh nghiệp bằng nhiều biện pháp và hình thức đa dạng. Có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp sử dụng công nghệ thông tin trong quá trình thu thập thông tin thị trường bằng biện pháp giảm cước truy cập Internet, cước điện thoại, xây dựng thị trường bưu chính viễn thông mang tính cạnh tranh, thực hiện chương trình chính phủ điện tử một cách có hiệu quả.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

Thứ hai, tăng cường hỗ trợ, giúp đõ xúc tiến thương mại cho doanh nghiệp từ phía chính quyền các cấp. Để hoạt động xúc tiến thương mại ngày càng hiệu quả hơn, bên cạnh việc các doanh nghiệp phải ngày càng hoàn thiện mình, rất cần có sự hỗ trợ của Nhà nước trên các mặt sau đây:

- Hoàn thiện hệ thống pháp lý để tạo môi trường thông thoáng cho hoạt động xúc tiến thương mại, tạo sự cạnh tranh bình đẳng trong hoạt động xúc tiến thương mại giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Tăng cường công tác phổ biến pháp luật và đẩy mạnh hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm tránh tình trạng chồng chéo trong quản lý hoặc buông lỏng quản lý hoạt động xúc tiến thương mại.

Phát triển tư nhân ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp - 12

- Phối hợp hoạt động giữa các tổ chức xúc tiến thương mại ở các địa phương cũng như trong cả nước nhằm phát huy tối đa sự hỗ trợ cho doanh nghiệp, trên cở sở các tổ chức xúc tiến thương mại thuộc Chính phủ như: các Viện nghiên cứu, Trung tâm tư vấn, Sở thương mại, các cơ sở kinh doanh dịch vụ của các thành phần kinh tế, các Hiệp hội ngành nghề trên địa bàn.

- Rà soát, bổ sung, sửa đổi các chính sách khuyến khích, hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại theo hướng đơn giản hóa.


3.4.6. Thúc đẩy, hỗ trợ kinh tế tư nhân hội nhập kinh tế quốc tế

Để khu vực kinh tế tư nhân hội nhập kinh tế quốc tế thành công, ngoài những nỗ lực bản thân của từng doanh nghiệp thì vai trò của Chính phủ là hết sức quan trọng. Nhà nước, với những công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô, sẽ tác động vào tiến trình hội nhập một cách nhanh chóng mà không phải doanh nghiệp nào cũng thực hiện được. Vì vậy, những chính sách và cam kết của chính phủ có tính đa phương hoặc song phương sẽ có tác động trực tiếp đối với doanh nghiệp trong quá trình hội nhập.

Thứ nhất, xây dựng chính sách hỗ trợ kinh tế tư nhân đầu tư ra nước

ngoài.

Hội nhập kinh tế quốc tế suy cho cùng là quá trình mỗi quốc gia ngày càng

tạo điều kiện tự do hóa và hỗ trợ thuận lợi nhất cho những hoạt động của các dòng vốn, hàng hóa, dịch vụ và lao động qua biên giới nước mình theo hai chiều: chiều vào và chiều ra. Tuy nhiên, tiêu chuẩn để đánh giá sự chủ động hội nhập của một quốc gia chính là chiều ra, thể hiện ở xuất khẩu và đầu tư ra nước ngoài. Ở Việt Nam, hiện nay vấn đề hỗ trợ các doanh nghiệp trong đó có các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân đầu tư kinh doanh ở nước ngoài vẫn còn chưa được quan tâm đúng mức. Vì vậy, việc xác định đúng các lĩnh vực, nội dung, yêu cần hỗ trợ từ phía Nhà nước cho doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trước hết cần tập trung vào các giải

pháp sau:

- Xây dựng hành lang pháp lý trong nước và quốc tế nhằm mở đường và định hướng cho các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài an toàn và thuận lợi. Cụ thể là các thỏa thuận có tính quốc tế giữa Việt Nam và các nước về vấn đề đầu tư, lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ, lao động qua biên giới, các hiệp định kinh tế, thương mại song phương.


- Không ngừng củng cố, tằng cường năng lực các cơ cấu tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài. Theo đó, cần có những bộ phận cơ cấu mang tính liên ngành và chuyên ngành với đội ngũ cán bộ có chức năng chuyên trách, đủ trình độ và trách nhiệm cao, để đề xuất những văn bản pháp quy liên quan trực tiếp đến các hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Các đại sứ quán, lãnh sự quán, phòng thường vụ Việt Nam ở nước ngoài phải tích cực hỗ trợ các hoạt động này.

Các Ngân hàng Thương mại Nhà nước Việt Nam cần có những chi nhánh văn phòng đại diện ở nước ngoài, ưu tiên đặt tại các trung tâm lớn có cộng đồng doanh nhân, doanh nghiệp Việt Nam. Đặc biệt, cần cho ra đời các Công ty đầu tư tài chính quốc tế thích hợp, có chức năng huy động vốn đầu tư trong và ngoài nước để thực hiện đầu tư tài chính quốc tế, nhằm đa dạng hóa các công cụ đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp và doanh nhân Việt Nam.

Khuyến khích và hỗ trợ việc thành lập các Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam ở những nước có doanh nghiệp Việt Nam đầu tư, chủ động tham gia và tích cực hoạt động trong các tổ chức Hiệp hội ngành hàng khu vực và quốc tế.

- Mở rộng, phát triển đồng bộ và nâng cao chất lượng các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài. Dịch vụ hàng đầu cần sự hỗ trợ là cung cấp thông tin bao gồm thông tin thị trường, thông tin đối tác, thông tin về môi trường đầu tư (các quy định về pháp lý, thủ tục xuất – nhập khẩu, các yêu cầu và giấy chứng nhận về vệ sinh an toàn thực phẩm, các đặc điểm văn hóa, thị hiếu tiêu dùng…).

Thứ hai, thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực xúc tiến thương mại.

Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và nỗ lực đẩy mạnh xuất khẩu, tìm kiếm, mở rộng thị trường cho hàng hóa và dịch vụ nói riêng, các doanh nghiệp của tư nhân cần phải nắm được những vấn đề cơ bản của xúc tiến


thương mại quốc tế. Hoạt động xúc tiến thương mại nói chung là công việc còn khá mới mẻ ở Việt Nam, kinh nghiệm hoạt động còn ít. Vì vậy, cần chủ động hợp tác với các tổ chức xúc tiến thương mại lớn trên thế giới như ITC, nhóm đặc trách về xúc tiến thương mại của APEC, tổ chúc xúc tiến thương mại của Nhật Bản (JETRO), của Đài Loan (CETRA)… nhằm học tập những kinh nghiệm.

Thứ ba, tăng cường hỗ trợ bảo hộ sở hữu công nghiệp trên thị trường thế giới. Để giúp các doanh nghiệp xuất khẩu thiết lập quyền sở hữu công nghiệp của mình trên thị trường nội địa và bước ra thương trường thế giới với mức độ cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn, cần phải chú ý một số giải pháp:

- Nhà nước phải hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc đăng ký, xác lập quyền sở hữu công nghiệp. Trong các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp được nhấn mạnh, vì quyền sở hữu công nghiệp là một loại tài sản của doanh nghiệp. Vì vậy, bản thân doanh nghiệp phải chủ động thực hiện mọi biện pháp để bảo vệ quyền của mình. Nhà nước chỉ tạo ra những cơ chế, hành lang pháp lý thích hợp để các chủ thể kinh tế bảo vệ được quyền của mình. Giải pháp hỗ trợ kinh phí để doanh nghiệp tiến hành đăng ký xác lập quyền không phải là giải pháp có hiệu quả. Trong giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp đăng ký xác lâp quyền sở hữu công nghiệp, có một cách tiếp cận có hiệu quả đối với các doanh nghiệp xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hiện nay, đó chỉ là cách tiếp cận tập thể - tiếp cận theo ngành hàng.

Các doanh nghiệp xuất khẩu của nước ngoài có thể thu được lợi nhuận rất lớn khi mua sản phẩm của Việt Nam sau đó gắn những nhãn hiệu nổi tiếng. Như vậy, nhà nước cần tập trung vào hỗ trợ các ngành hàng xác lập quyền sở hữu công nghiệp ở nước ngoài thay vì hỗ trợ từng doanh nghiệp xuất khẩu. Giải pháp


này đặc biệt phù hợp với đối tượng quyền sở hữu công nghiệp là chỉ dẫn địa lý/tên gọi xuất xứ hàng hóa.

- Hỗ trợ thành lập các tổ chức quản lý tập thể chỉ dẫn địa lý/tên gọi xuất xứ hàng hóa. Ở nước ta, hầu như mỗi địa phương đều có không ít các đặc sản truyền thống mang tên của địa phương đó (như nước mắm Phú Quốc, cà phê Đắc Lắc, bưởi năm roi Bình Minh…). Nhiều đặc sản được người tiêu dùng ưa chuộng đã bị làm giả ở mức độ khác nhau (như nhãn hiệu mắm Phú Quốc của Việt Nam đã bị đăng ký quyền sở hữu công nghiệp trước bởi một doanh nghiệp ở Thái Lan). Vì vậy các doanh nghiệp phải nhận thấy được sự cần thiết phải có sự bảo hộ pháp lý đối với tên gọi của sản phẩm.

Tuy nhiên, các doanh nghiệp thường không biết sản phẩm của mình có đáp ứng các điều kiện luật định để được hưởng sự bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp hay không. Bởi vậy, họ cần được hỗ trợ trong việc đánh giá sơ bộ khả năng đáp ứng các điều kiện bảo hộ đó. Mặt khác, công việc xác định và chứng minh các điều kiện bảo hộ lại rất tốn kém, trong khi cộng đồng doanh nghiệp chưa thể khẳng định được giá trị kinh tế thực sự do sự bảo hộ đem lại. Bởi vậy, họ cần được hổ trợ về phương pháp luận và các nguồn lực để đánh giá sự cần thiết phải bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm của địa phương.

3.4.7. Phát huy nội lực của kinh tế tư nhân

Bên cạnh những giải pháp từ phía nhà nước, bản thân kinh tế tư nhân cũng phải tự nỗ lực đổi mới và hoàn thiện mình cho phù hợp với phát triển và hội nhập. Trong bối cảnh hội nhập, các doanh nghiệp phải ra sức nâng cao năng lực cạnh tranh, tức là đặt doanh nghiệp vào môi trường cạnh tranh quốc tế. Vì vậy, các giải pháp từ phía doanh nghiệp cần phải gắn với thị trường, phải không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh doanh, xây dựng thương


hiệu, chiến lược kinh doanh phù hợp… Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh từ phía kinh tế tư nhân là:

Thứ nhất, xây dựng và điều chỉnh chiến lược kinh doanh phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Chiến lược kinh doanh hợp lý là một trong những vấn đề mang tính sống còn của doanh nghiệp. Điều này đặt ra cho doanh nghiệp nhiệm vụ đánh giá lại các chiến lược của mình, bao gồm chiến lược sản phẩm, chiến lược phát triển thị trường, chiến lược phát triển nguồn nhân lực.

Đầu tiên cần phải quan tâm đến việc đánh giá năng lực sản phẩm, đó là cơ sở để đánh giá mức độ đáp ứng nhu cầu thị trường, khả năng cạnh tranh của từng sản phẩm trong điều kiện cạnh tranh quốc tế, khi Việt Nam đã là thành viên của WTO. Bước tiếp theo là đầu tư nghiên cứu thị trường, bao gồm lượng cầu, thị hiếu, mẫu mã, quy cách, quy định về tiêu thụ hàng hóa ở các vùng, các nước khác nhau. Trên cơ sở đó, định hướng lại chiến lược sản phẩm, đồng thời cần kết hợp giữa tính đặc thù của sản phẩm với tính phổ thông, lựa chọn giữa xu hướng chuyên biệt hóa và đa dạng hóa sản phẩm trong từng giai đoạn. Kế tiếp là tìm các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm trên cơ sở đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng nguyên liệu.

Thứ hai, đổi mới, nâng cao trình độ thiết bị, công nghệ. Cơ sở để nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm chính là thiết bị công nghệ hiện đại. Tuy nhiên, các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân còn nhiều khó khăn về vốn nên cần tính toán sử dụng công nghệ nào, thiết bị gì cho phù hợp. Muốn vậy, doanh nghiệp cần phải nắm bắt những thông tin về công nghệ, tiếp cận thị trường khoa học – công nghệ, đẩy mạnh liên kết hợp tác về khoa học – công nghệ. Doanh nghiệp cần chú trọng ứng dụng những thành tựu khoa học – công nghệ vào sản xuất, có chương trình khuyến khích các hoạt động cải tiến, hợp lý hóa sản xuất, sáng chế và thực hiện các hoạt động nghiên cứu khoa học có liên quan.


Thứ ba, bồi dưỡng nâng cao trình độ nguồn nhân lực. Trong những năm qua, khu vực tư nhân nhìn chung chưa chú trọng đến nguồn nhân lực, bao gồm đội ngũ lao động và quản lý doanh nghiệp, mặc dù đây được coi là yếu tồ quyết định tới thành công của doanh nghiệp. Để nâng cao trình độ nguồn nhân lực, biện pháp chủ yếu vẫn là tăng cường đào tạo và đào tạo lại dưới nhiều hình thức khác nhau như theo học các chương trình chính khóa, đào tạo vừa học vừa làm, huấn luyện trực tiếp tại doanh nghiệp, tổ chức các chương trình giao lưu, học tập với các chuyên gia hay giữa nhân viên trong doanh nghiệp…

Thứ tư, xây dựng chiến lược về sở hữu công nghiệp trong bối cảnh Việt Nam đã là thành viên của WTO. Tương tự như chiến lược kinh doanh, muốn bảo hộ có hiệu quả quyền sở hữu công nghiệp, doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một chiến lược về hoạt động này. Chiến lược về bảo hộ sở hữu công nghiệp thường phải gắn chặt cới chiến lược kinh doanh, đặc biệt khi doanh nghiệp có chiến lược mở rộng thị trường xuất khẩu. Chiến lược sở hữu công nghiệp của doanh nghiệp phải đặt ra được những nội dung sau. Xác định các đối tượng sở hữu công nghiệp chủ yếu của doanh nghiệp. Xác định cách thức tạo dựng (nguồn) của khối tài sản sở hữu công nghiệp. Xác định lành thổ cần bảo hội đối với từng đối tượng sở hữu công nghiệp và cuối cùng là xác định bộ máy quản lý quyền sở hữu công nghiệp trong doanh nghiệp.

Thứ năm, nghiên cứu lựa chọn mô hình tổ chức doanh nghiệp phù hợp đặc biệt là theo yêu cầu của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Thứ sáu, tăng cường hợp tác, mở rộng liên kết với các doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân và ở các thành phần kinh tế khác. Trong điều kiện điểm xuất phát còn thấp, các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân không đủ khả năng chống chọi lại với những doanh nghiệp lớn, những tập đoàn kinh tế. Vì vậy, muốn nâng cao khả năng cạnh tranh phải tăng cường các mối liên kết kinh tế. Để

Xem tất cả 104 trang.

Ngày đăng: 07/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí