Mô Hình Trách Nhiệm Xã Hội Dựa Trên 3 Khía Cạnh Môi Trường, Kinh Tế Và Xã Hội

Nhược điểm của mô hình: Mô hình TNXHDN của tổ chức TOI chưa liên kết các nội dung thực hiện TNXH theo một khía cạnh tổng quát, điều này sẽ gây khó khăn cho các nhà quản trị DN trong việc nhìn nhận và thực hiện TNXHDNLH.

1.1.4.5. Mô hình trách nhiệm xã hội dựa trên 3 khía cạnh Môi trường, kinh tế và xã hội

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp dựa trên khái niệm ba điểm mấu chốt, đo lường lợi nhuận và thua lỗ về kinh tế, môi trường và xã hội. Điều này có nghĩa là thay vì chỉ chịu trách nhiệm về tối ưu hóa lợi nhuận, các công ty tham gia vào TNXH phải chịu trách nhiệm về các hành động của họ liên quan đến môi trường, xã hội và nền kinh tế. Trong quá khứ, điểm mấu chốt về tài chính là cách tiếp cận duy nhất của các công ty vì mối quan tâm chính của họ là tối đa hóa lợi nhuận. Ngày nay, các công ty phải nhận thức được những tác động của họ đối với môi trường mà họ hoạt động do hoạt động kinh doanh của họ gây ra. Ngày nay, chỉ có lợi nhuận thôi là chưa đủ vì các bên liên quan khác nhau có những kỳ vọng khác nhau mà doanh nghiệp phải đáp ứng. Việc tôn trọng nhân viên, cộng đồng địa phương và các bên liên quan khác đang trở nên cần thiết (Kalish, 2002).


Môi

trường

Xã hội

Kinh tế

Trách nhiệm

xã hội

Hình 1.5. Mô hình TNXH dựa trên ba điểm mấu chốt‌

(Nguồn: Manente và cs., 2014)


Các công ty có thể đảm bảo hiệu quả kinh tế dài hạn của mình bằng cách tránh các hành vi ngắn hạn, thường có hại về mặt xã hội và môi trường (Porter & Kramer, 2006). Do đó, phương pháp tiếp cận đựa trên cả ba khía cạnh kinh tế, môi trường và xã hội nên được tất cả các doanh nghiệp kết hợp (Coles, Fenclova, & Dinan, 2013). Vo, Delchet-Cochet và Akeb (2015), trong bài báo của họ, Động cơ đằng sau việc tích hợp TNXH vào chiến lược kinh doanh: Một nghiên cứu so sánh ở các doanh nghiệp vừa và

nhỏ (DNVVN) ở Pháp đã xem xét các động cơ khác nhau đằng sau việc các DNVVN tích hợp TNXH. Họ sử dụng phương pháp tiếp cận ba điểm mấu chốt để phân chia động cơ thành các loại - động cơ kinh tế, xã hội và môi trường. Các động cơ kinh tế được coi là động lực quan trọng nhất của sự hội nhập TNXH. Tuy nhiên, theo Jenkins, các DNVVN tham gia vào TNXH chủ yếu vì các lý do xã hội và môi trường. Điều này có thể là do các công ty vừa và nhỏ lấy chủ sở hữu làm trung tâm hoặc vì TNXH chỉ là “điều đúng đắn cần làm” (Jenkins, 2006). Bỏ qua tầm quan trọng của từng loại động cơ, tất cả chúng đều quan trọng để khám phá, vì chúng tiết lộ thông tin khác, có thể giúp hiểu rõ hơn nhận thức của các DNVVN về TNXH và cách họ thực hiện nó.

1.1.5. Hệ thống đánh giá trách nhiệm xã hội‌

Hệ thống đánh giá TNXH có thể được định nghĩa là “một hệ thống đánh giá, giúp kiểm tra và chứng nhận trách nhiệm chung của các công ty du lịch, đối với việc thực hành các nguyên tắc du lịch hoặc việc thực hiện TNXH” (Bien, 2008; Manente và cs., 2014). Nó có thể được coi là một công cụ đo lường nhằm đảm bảo rằng sản phẩm du lịch, hoặc hoạt động hoặc một quá trình hoạt động du lịch đáp ứng các tiêu chuẩn cụ thể. Trong những năm gần đây, do sự công nhận ngày càng tăng về TNXH và phát triển bền vững trong ngành du lịch, một số chương trình báo cáo TNXH, chẳng hạn như chứng nhận, cấp nhãn hay trao giải thưởng đã được khuyến khích và phát triển cho các doanh nghiệp đặc biệt là trong ngành du lịch (Dodds & Joppe , 2005; Goodwin, 2005; Font & Buckely, 2010). Hiện tại ở Châu Âu sử dụng một số hệ thống đánh giá TNXH được trình bày ở bảng 1.

Hệ thống đánh giá TNXH đã được sử dụng cho các đại lý du lịch và công ty lữ hành có thể được phân chia thành hai nhóm. Nhóm thứ nhất là hệ thống như AITR, ATES, TOI, AITO, cũng như Travelife. Các Hệ thống đánh giá này được tạo ra bởi các nhà điều hành tour du lịch chuyên về TNXH hoặc tích cực tham gia vào các hoạt động có trách nhiệm. Nhóm thứ hai là các hệ thống được phát triển bởi các công ty hoặc tổ chức tư vấn đề xuất các công cụ thúc đẩy trách nhiệm trong các doanh nghiệp du lịch, chẳng hạn như QUIDAMTUR, KATE và The Responsibletravel.com (Manente và cs., 2014)

Bảng 1.1. Một số hệ thống đánh giá trách nhiệm xã hội và du lịch có trách nhiệm của doanh nghiệp


STT

Tên hệ thống đánh giá

Tên tổ chức

Nơi áp dụng

1

Tiêu chuẩn du lịch có

trách nhiệm

AITR

Ý

2

Hệ thống ATES

ATES

Pháp

3

Chỉ số cho doanh

nghiệp du lịch có trách nhiệm

QUIDAMTUR

Tây Ban Nha

4

Chứng thực trách nhiệm xã hội của

doanh nghiệp

KATE

Đức

5

Chương trình ATR

ATT

Pháp

6

Tour Operator’s Sector

Supplement

TOI-GRI

Châu Âu

7

Hệ thống

Responsibletravel.com

Công ty lữ hành trực tuyến (Responsibletrav

el.com)

Anh

8

Hệ thống Travelife

Sustainability

Travelife

Châu Âu

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

Nghiên cứu trách nhiệm xã hội của một số doanh nghiệp kinh doanh lữ hành tại Huế - 4


Nghiên cứu chỉ trình bày các hệ thống đánh giá trách nhiệm xã hội theo cách tiếp cận bằng phương pháp cấp chứng chỉ, bao gồm các hệ thống: KATE, TOI-GRI, QUIDAMTUR và Travelife như bảng 1.2.

Bảng 1.2. Tổng hợp các hệ thống đánh giá trách nhiệm xã hội theo phương pháp cấp chứng chỉ



QUIDAMTUR

KATE

TOI-GRI

Travelife

Mục tiêu

- Đánh giá mức độ thực hiện TNXH của CTLH

thông qua chuỗi cung ứng.

- Phát triển công cụ rõ ràng, áp dụng phổ biến để đánh giá sự bền vững của các dịch vụ phục vụ khách du lịch.

- Giúp CTLH xây dựng tích hợp các chiến lược TNXH.

- Đưa ra những tác động của kinh doanh du lịch đối đối với hệ sinh thái, xã hội và kinh tế một cách minh bạch.

- Tạo ra hệ thống đánh giá đáng tin cậy, có thể sử dụng cho các doanh nghiệp có quy mô khác nhau trên toàn quốc.

- Giúp CTLH và các nhà cung cấp của họ thực hiện nguyên tắc TNXH.

- Giới thiệu TNXH đến khách du lịch.

- Nâng cao chất lượng sản phẩm, sự hài

lòng của KDL




và thiện chí sẵn sàng đến với điểm đến.

Đối tượng đánh giá

Cấu trúc và quy trình nội bộ của các công ty và của chuỗi cung ứng

CTLH: Trách nhiệm của doanh nghiệp đối với nội bộ bên trong và

bên ngoài doanh nghiệp

CTLH: Trách

nhiệm của

doanh nghiệp đối với nội bộ

và bên ngoài doanh nghiệp

CTLH: Những hoạt động của CTLH tác động đến kinh

tế, môi trường và xã hội

Số lượng

tiêu chí đánh giá

54

8

5

17

Số lượng

chỉ tiêu đánh giá

98

57

126

139

Cách thức kiểm tra đánh giá

Tự đánh giá bởi KDL, đánh giá bởi các chuyên

gia địa phương

Kiểm tra, giám sát bởi bên thứ ba

Tự đánh giá

Kiểm tra, giám sát bởi bên thứ ba


Mặc dù các hệ thống có mục tiêu khác nhau nhưng nhìn chung nhằm đánh giá thực hành TNXH của doanh nghiệp, chỉ có hệ thống Travelife là nhấn mạnh đến mục tiêu cải thiện chất lượng sản phẩm cũng như nâng cao nhận thức và sự hài lòng của khách hàng. Đối với các hệ thống đánh giá như QUIDAMTUR, KATE và TOI-GRI chủ yếu đánh giá trách nhiệm của doanh nghiệp đối với nội bộ và bên ngoài doanh nghiệp trong khi Travelife thì đánh giá TNXH dựa trên tác động của doanh nghiệp đến kinh tế, môi trường và xã hội. Điều này cho thấy, Travelife dựa trên khái niệm TNXH dựa trên ba khía cạnh: kinh tế, xã hội và môi trường để đánh giá thực hành TNXH của doanh nghiệp. Chỉnh vì vậy mà số lượng tiêu chí đánh giá của hệ thống này cũng chi tiết và nhiều hơn so với các hệ thống khác. Cách thức đánh giá hầu như dược đánh giả bởi chuyên gia và bên thứ ba trong khi hệ thống TOI-GRI là hệ thống tự đánh giá bởi doanh nghiệp chứ không thông qua bên thức ba. Điều này làm cho hệ thống đánh giá này thiếu tính khách quan và chính xác so với các hệ thống đánh giá được kiểm tra, giám sát bởi bên thứ ba như hệ thống QUIDAMTUR, KATE và Travelife.

Hệ thống chứng nhận Travelife được khẳng định là một hệ thống công bằng và giá cả phải chăng giúp các doanh nghiệp du lịch quản lý và cải thiện các tác động xã hội và môi trường bằng cách tuân thủ các tiêu chí bền vững. Hiện đã có 700 khách sạn và hơn 450 công ty lữ hành và công ty lữ hành áp dụng chứng chỉ (Manente, M. và cs, 2014). Các công ty du lịch quan trọng hoặc công ty điều hành tour du lịch như TUI,

Kuoni và Thomas Cook là một trong số những người nộp đơn. Chương trình chứng nhận Travelife thành công, vì có rất nhiều người đăng ký cam kết với chương trình. Nó được coi là một trong những nơi phổ biến nhất trong ngành du lịch Châu Âu. Vì vậy, các doanh nghiệp lữ hành có thể tham khảo hệ thống đánh giá TNXH của Travelife để tự đánh giá TNXH của doanh nghiệp cũng như đăng ký tham gia để được hưởng các lợi ích mà hệ thống đánh giá Travelife mang lại.

1.1.6. Lợi ích của chứng chỉ TNXH của doanh nghiệp‌

Chứng chỉ TNXH cung cấp cho các doanh nghiệp du lịch cơ hội cải thiện hoạt động bền vững để nâng cao vị thế trên thị trường du lịch, ngăn chặn sự can thiệp quá mức của chính phủ, cũng như thể hiện một hình ảnh điểm đến tích cực (Vertinsky, I., & Zhou, D., 2000). Người ta tin rằng chứng nhận TNXH đại diện cho một chiến lược ngày càng quan trọng để khuyến khích sản xuất hàng hóa và dịch vụ bền vững và nó nhằm mục đích khuyến khích khách hàng mua hàng hóa và dịch vụ từ các công ty tham gia vào mối quan hệ xã hội và môi trường cao (Jarvis, N. và cs, 2010). Tepelus và Córdoba (2005) đã tuyên bố rằng ngành du lịch vẫn chưa được kiểm soát ở một số lượng lớn, do đó việc tự nguyện áp dụng một chương trình chứng nhận TNXH dường như là cực kỳ quan trọng. Ở một mức độ nào đó, nó đảm bảo chất lượng cao của các sản phẩm bền vững và nó cũng rất cần thiết cho cam kết kinh doanh lâu dài về cải tiến chất lượng.

Giảm tác động môi trường được coi là một trong những lý do quan trọng nhất để doanh nghiệp du lịch tham gia với chứng chỉ TNXH. Chứng chỉ TNXH chẳng hạn như Travelife, nó cung cấp nguyên tắc rất toàn diện về tính bền vững và trách nhiệm với môi trường. Do đó, bằng cách tham gia vào chương trình chứng nhận TNXH, các doanh nghiệp du lịch sẽ có cơ hội giảm thiểu các tác động tiêu cực đến môi trường do du lịch gây ra. Các bằng chứng tài liệu khác cũng đã chứng minh rằng các chương trình chứng nhận nhằm mang lại lợi ích và bảo vệ môi trường (Font, X. (2002); Font, X., & Buckely, R. (2010); Jarvis, N. và cs., 2010).

Tiết kiệm chi phí được coi là một trong những nỗ lực mà chứng chỉ TNXH đóng góp cho các công ty được trao giải (Dodds & Joppe, 2005). Điều này trước hết đề cập đến các vấn đề môi trường như tiết kiệm nước và năng lượng. Thứ hai, chương trình chứng nhận cung cấp các cấp độ khác nhau của các khóa học và nó cho phép các

công ty tiết kiệm chi phí đào tạo nhân viên. Bản thân chương trình chứng nhận sẽ mang lại cơ hội giúp các công ty cải thiện việc quản lý và thực hành nội bộ.

Từ khía cạnh tài liệu, cải thiện hình ảnh của công ty là một trong những động lực quan trọng của việc tham gia chương trình chứng nhận TNXH (Dodds & Joppe, 2005; Harris, S. M. 2007). Một số tác giả đã tuyên bố rằng các thương hiệu dễ nhận biết và phổ biến dẫn đến việc cải thiện doanh số bán hàng và lòng trung thành của khách hàng (O’Sullivan, D., & McCallig, J., 2012). Bằng cách tham gia chương trình chứng nhận TNXH, doanh nghiệp du lịch sẽ có cơ hội tiếp thị lại các sản phẩm của mình và tích hợp các yếu tố thân thiện với môi trường vào sản phẩm và dịch vụ. Do đó, điều này sẽ giúp tăng khả năng nhận diện thương hiệu của các công ty. Các cuộc khảo sát người tiêu dùng cho thấy ngày càng có nhiều người tiêu dùng sẵn sàng ủng hộ các sản phẩm thân thiện với môi trường. Và họ không ngại trả nhiều hơn cho các loại hình du lịch bền vững (Dodds & Joppe, Jarvis, N. và cs., 2010). Dodds và Joppe cũng đã đề cập trong bài báo của họ rằng 61% người tiêu dùng quan tâm đến các sản phẩm du lịch thân thiện với môi trường và xã hội nhạy cảm và sẵn sàng trả thêm tới 10% cho một kỳ nghỉ.

Theo Dodds và Joppe (2005), một trong những lợi ích của việc tham gia với chứng chỉ TNXH là cải thiện lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp du lịch. Thứ nhất, đó là vì chương trình chứng nhận cho phép doanh nghiệp du lịch có một tập đoàn tốt hơn với phía cung ứng của các công ty. Thứ hai, chương trình chứng nhận giúp các công ty được trao giải giao tiếp với khách hàng bằng các công cụ tiếp thị khác nhau. Ví dụ: Travelife trao chứng chỉ cho các đại lý du lịch hoặc công ty điều hành tour du lịch, theo đó, các đại lý du lịch hoặc công ty điều hành tour được phép sử dụng biểu tượng Travelife trên cả tài liệu tiếp thị trực tuyến và ngoại tuyến của họ. Điều này có thể giúp phân biệt các công ty được chứng nhận với các đối thủ cạnh tranh khác và tăng uy tín cho các sản phẩm và dịch vụ du lịch của họ. Thứ ba, đối với cộng đồng điểm đến nơi các công ty lữ hành hoặc đại lý lữ hành được trao giải đang kinh doanh, bằng cách thúc đẩy phát triển bền vững, sẽ giúp cải thiện điều kiện môi trường của cơ sở vật chất hoặc cơ sở hạ tầng của các điểm đến.

1.1.7. Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến TNXH của doanh nghiệp‌


Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là một thuật ngữ ra đời từ những năm 50 của thế kỷ 20. Cho đến nay đã có rất nhiều nghiên cứu về vấn đề này trải dài theo từng giai đoạn và từng khía cạnh của vấn đề. Mặc dù nghiên cứu khoa học về TNXH được ghi nhận từ những năm 60 (Wang và các cộng sự, 2016), vẫn còn nhiều tranh luận chưa đến hồi kết về hai luồng tư tưởng trái chiều về TNXH, nhằm để tối đa hóa giá trị cổ đông hay để tạo ra giá trị cho xã hội. Tư duy về TNXH trong những năm 90 đã chuyển dịch dần từ đáp ứng nghĩa vụ với xã hội và làm thiện nguyện sang cấp độ chiến lược, nghĩa là doanh nghiệp chủ động lồng ghép các sáng kiến xã hội vào mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp (Banerjee, 2006).

Cuộc tranh luận về mối quan hệ giữa TNXH và hiệu quả tài chính của doanh nghiệp chưa đi đến hồi kết luận. Phạm trù TNXH liên quan tới nhiều lý thuyết trái chiều và cách tiếp cận tới khái niệm này còn phức tạp, chưa rõ ràng và còn nhiều tranh cãi (Garriga và Mele, 2004). Friedman (1970) nổi tiếng với quan điểm doanh nghiệp chỉ có một trách nhiệm về mặt xã hội duy nhất là sử dụng nguồn lực của doanh nghiệp để hoạt động làm tăng lợi nhuận- đạt được mục tiêu này là doanh nghiệp đã có trách nhiệm với xã hội. Những tranh luận trái chiều xoay quanh mối quan hệ giữa thực hiện TNXH và hiệu quả của doanh nghiệp về mặt tài chính được đẩy lên cao khi Aupperle và các cộng sự (1985) công bố nghiên cứu của họ không tìm thấy mối quan hệ ý nghĩa nào giữa định hướng hoạt động của doanh nghiệp thiên về trách nhiệm xã hội và hiệu quả tài chính của doanh nghiệp. Các tác giả này kết luận “doanh nghiệp không được lợi mà cũng chẳng có hại khi theo đuổi các cam kết về trách nhiệm với xã hội”.

Kể từ cuối những năm 90, các nhà nghiên cứu bắt đầu gắn kết khái niệm TNXH nhiều hơn với khái niệm quản trị công ty. Từ đó, cộng đồng khoa học bàn nhiều hơn về mối quan hệ giữa thực hiện TNXH và các chỉ số đo lường kết quả hoạt động của doanh nghiệp, cả trên sổ sách và trên thị trường (Perrini và các tác giả, 2008). Về mối quan hệ giữa TNXH và hiệu quả tài chính hay liệu TNXH có đóng góp phần nào vào lợi ích kinh tế của doanh nghiệp, các nghiên cứu thực nghiệm trước đây chỉ ra cả những ảnh hưởng tiêu cực và tích cực; ví dụ được nhận thấy trong mối quan hệ giữa CSP và lợi nhuận (Margolis và Walsh, 2003). Những cuộc tranh luận về chủ đề này vẫn còn tiếp diễn. Jones (2004) đã chỉ ra rằng, khó khăn trong việc nhận diện và định lượng TNXH nằm ở chỗ TNXH không chỉ liên quan tới khoản chi của doanh nghiệp

mà còn liên quan tới hành vi đạo đức của người quản lý doanh nghiệp với các bên có chung lợi ích.

Porter và Kramer (2006) lần đầu tiên đưa ra quan điểm “giá trị được chia sẻ”, tập trung vào việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua lồng ghép TNXH vào chiến lược. Chiến lược này mang lại lợi ích cho cả cổ đông và những bên có chung lợi ích với doanh nghiệp. Giải pháp cả hai cùng thắng nằm ở sự giao thoa giữa lợi ích của doanh nghiệp và lợi ích của xã hội. Chính vì thế, các doanh nghiệp nên dừng suy nghĩ về “nghĩa vụ phải thực hiện trách nhiệm xã hội” và nên bắt đầu suy nghĩ về chiến lược “lồng ghép lợi ích xã hội và lợi ích của doanh nghiệp” (Porter và Kramer, 2011).

Nghiên cứu thực nghiệm gần đây của Trần Thị Hiền và Nguyễn Thị Thảo (2017) đưa ra kết luận về xu hướng lựa chọn các bên liên đới về lợi ích của các doanh nghiệp Việt Nam. Sử dụng các báo cáo phát triển bền vững và báo cáo tích hợp của những doanh nghiệp hàng đầu trên hai sàn chứng khoán ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, nghiên cứu rút ra mô hình quản trị các bên liên đới của doanh nghiệp Việt Nam đang còn ở cấp độ sơ sài so với nội hàm của khái niệm TNXH. Cũng như nhiều nghiên cứu quốc tế về TNXH trước đây, nghiên cứu này vẫn còn hạn chế ở thước đo TNXH dựa vào phương pháp phân tích nội dung.

Mặc dù một phần nào vấn đề về khái niệm và thực tiễn TNXH đã được giải quyết trong các nghiên cứu trước đây, khái niệm này vẫn còn thiếu nền tảng lý thuyết mạnh và giá trị thực nghiệm (Gond, 2008). Mô hình lý thuyết về mối quan hệ giữa TNXH và lợi ích kinh tế của doanh nghiệp vẫn chưa rõ ràng (Tricker, 2009). Cùng với đó, vai trò của doanh nghiệp trong việc tạo ra giá trị xã hội trong xã hội hiện đại vẫn chưa được làm rõ, nhất là trong bối cảnh có sự xung đột lợi ích giữa cổ đông và các bên liên đới với lợi ích của doanh nghiệp (Morck, 2014). Đây còn là khoảng trống nghiên cứu về chủ đề TNXH.

Phạm Văn Đức (2011) nghiên cứu: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay”. Nghiên cứu này đã làm rõ nội dung TNXH của doanh nghiệp, vai trò của việc thực hiện TNXH của doanh nghiệp và một số vấn đề thực tiễn đang đặt ra ở Việt Nam hiện nay. Thực tế trên thế giới đã chỉ ra rằng, doanh nghiệp nào thực hiện tốt trách nhiệm

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 17/05/2022