Cơ Cấu Giá Trị Sản Phẩm Ngành Công Nghiệp-Xây Dựng


Năm

Tổng số

Nông nghiệp

Lâm nghiệp

Thủy sản

1993

100

84,2

3,67

12,13

1995

100

83,7

4,38

11,90

2000

100

83,3

3,90

12,80

2005

100

67,5

2,50

30,00

2010

100

77,6

1,3

21,1

2011

100

78,4

1,1

20,5

2012

100

76,1

0,9

23,0

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 172 trang tài liệu này.

Nghiên cứu mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu và tăng trưởng kinh tế ở thành phố Hồ Chí Minh - 11

Nguồn: Niên giám thống kê TP.HCM 1993-2012 Theo số liệu bảng 3.3 ta thấy về cơ cấu giá trị nông nghiệp luôn chiếm ưu thế và chiếm tỷ lệ tương đối cao trên 70% cơ cấu ngành nông – lâm- ngư nghiệp. Nhìn tổng thể, qua 20 năm tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm 8,1 điểm phần trăm (từ 84,2% năm 1993 xuống 76,1% năm 2012); tỷ trọng lâm nghiệp giảm 2,77 điểm % (từ 3,67% xuống 0,9%); Tỷ trọng Thủy sản tăng lên 10,87 điểm % (từ 12,13% lên 23% năm 2012). Như vậy, cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp mở rộng có sự chuyển dịch đúng hướng, tuy nhiên tốc độ

còn chậm. Đến nay, tỷ (76,1%).

trọng nông nghiệp trong nông nghiệp mở rộng vẫn còn cao

Như vậy, ngành nông nghiệp TP.HCM đã từng bước điều chỉnh, cơ cấu giữa trồng trọt và chăn nuôi đã thay đổi theo hướng giảm tỷ trọng trồng trọt và tăng tỷ trọng chăn nuôi. Thành phố đã chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng giảm diện tích trồng lúa, tăng diện tích trồng hoa, rau an toàn, cỏ chăn nuôi và cây công nghiệp có giá trị cao hàng năm. Cụ thể năm 2009 thành phố có 13.000 ha rau màu các loại, tăng 30%, còn diện tích trồng hoa, cây kiểng đạt 1.910 ha, tăng 14,5% so vớn năm 2008. Diện tích trồng cỏ chăn nuôi đạt 3.000 ha, tăng 138% và sản lượng tăng 34,5%.

Phát triển nông nghiệp gắn với đô thị và phát triển nông nghiệp sinh thái, nông

nghiệp chất lượng cao là mục tiêu mà ngành nông nghiệp cần hướng tới.

Cùng với nông nghiệp, lâm nghiệp cũng được thành phố quan tâm, với chủ

trương bảo vệ, phát triển rừng và cây xanh, ngành lâm nghiệp thành phố đã mang lại những kết quả nhất định: năm 1993 diện tích rừng của thành phố là 26.617 ha, chiếm 12,72 diện tích tự nhiên của thành phố. Đến năm 2000, diện tích rừng tăng lên 32.696 ha, chiếm 15,6%, đến năm 2006 diện tích rừng tăng lên 33.771,5 ha, chiếm 16,11% và năm 2009 diện tích rừng tăng lên là 38.953,95 ha, chiếm 18,59% diện tích tự nhiên của thành phố và hiện nay TP.HCM đã có tổng diện tích rừng và đất lâm nghiệp là 36.179,77 ha, chiếm tỷ lệ 17,26% tổng diện tích tự nhiên. Đây chủ yếu là rừng phòng hộ môi trường là chủ yếu, tập trung ở các huyện Cần Giờ, Bình Chánh, Củ Chi, Hóc Môn và quận 9, riêng rừng Sác Cần Giờ có diện tích 33.076 ha, là khu dự trữ sinh quyển quốc gia được giữ gìn rất nghiêm ngặt. Bên cạnh đó rừng ngập mặt Cần Giờ đã được tổ chức MAB/UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển của thế giới.

Đối với ngành thủy sản, cá là loài thủy sản đóng góp đáng kể và luôn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu ngành thủy sản của thành phố. Tuy nhiên, sản lượng khai thác qua các năm chưa cao và đang có xu hướng giảm, sản lượng khai thác thủy sản vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của thành phố. Hoạt động nuôi trồng thủy sản trên địa bàn thành phố đã diễn biến theo hướng gia tăng, chuyển dần từ đánh bắt sang nuôi trồng thủy sản.

b. Chuyển dịch nội bộ ngành công nghiệp - xây dựng

Chương trình hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế bước đầu đạt kết quả tích cực, từng bước tạo chuyển biến về chất trong cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng các ngành có giá trị gia tăng và hàm lượng khoa học - công nghệ cao. Giá trị sản xuất công nghiệp giai đoạn 2006-2010 bằng 1,85 lần giai đoạn 2001 - 2005. Bốn ngành công nghiệp mũi nhọn của thành phố là cơ khí chế tạo, điện tử - công nghệ thông tin, hóa chất, chế biến tinh lương thực, thực phẩm chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong sản xuất công nghiệp.

- Ngành Công nghiệp chế biến là ngành chiếm tỷ trọng cao nhất trong GDP, tốc độ tăng trưởng nhanh. Công nghiệp thành phố có thế mạnh ở các sản phẩm: kim loại, hóa chất, may, da, điện tử. Trong những năm tới, với chủ trương hiện đại hóa, ngành công nghiệp sẽ được tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, cùng với việc hình thành các KCX và các KCN, sẽ tiếp tục duy trì nhịp độ phát triển với tốc độ như trong giai đoạn vừa qua.

- Ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước: hoạt động chủ yếu của ngành là điện và nước do Nhà nước độc quyền quản lý. Ngành này có tác động rất lớn đến mọi hoạt động kinh tế - xã hội. Mức tăng trưởng của ngành trong thời gian qua khá chậm tuy thành phố đã có những cố gắng để duy trì và phát triển ngành.

- Ngành xây dựng: tốc độ tăng trưởng của ngành này trong thời gian qua rất cao. Trên địa bàn thành phố tập trung nhiều đơn vị xây dựng có trang thiết bị hiện đại có khả năng thi công nhiều công trình tầm cỡ. Để đáp ứng cho nhu cầu sẽ tăng nhanh trong những năm sắp đến, ngành này cũng sẽ duy trì nhịp độ tăng trưởng cao.

Bảng 3.4. Cơ cấu giá trị sản phẩm ngành công nghiệp-xây dựng


Cơ cấu ngành

Năm

1993

1995

2000

2005

2010

2011

2012

Khai thác khoáng sản

0,2

0,2

15,7

11,2

0,86

1,09

0,98

Chế biến thực phẩm, đồ

uống


27,3


27,5


24,1


20,6


14,35


15,97


15,87

Chế biến gỗ, lâm sản

3,6

2,7

1,8

2

0,77

0,80

0,74

Sản xuất vật liệu xây dựng

5,3

5,2

6,4

4,6

4,2

4,1

4

Hóa chất

7,5

8

5,1

5,6

8,28

8,07

7,83

Dệt may, da, giầy

18,1

18,1

12,3

12,3

6,52

6,08

7,04

Chế tạo và gia công kim loại

4,0

3,8

3

4,6

8,39

8,48

7,53

Sản xuất phân phối điện

nước


4,0

734,3


5,6


5,6


1,18


1,20


1,15

Công nghiệp khác

30,0

31,2

26

33,5

55,45

54,21

54,86

Tổng cộng ngành

100

100

100

100

100

100

100

TP.HCM giai đoạn 1993-2012


Nguồn: Niên giám thống kê TP.HCM (1993-2012) Trong cơ cấu ngành công nghiệp của TP.HCM, công nghiệp khai thác chiếm tỷ trọng 0,2% năm 1995 tăng liên tục đến năm 2000 đạt mức 15,7%, năm 2001 chiếm tỷ trọng 13,1% giảm liên tục cho đến năm 2012 còn 0,98%. Công nghiệp chế biến thực phẩm, đồ uống chiếm tỷ trọng 27,3% năm 1993, năm 1998 là 24,4%, năm 1999 là 22,5% và giảm còn 15,87% năm 2012. Trong các ngành công nghiệp ta thấy công nghiệp chế biến, cơ cấu chính là công nghiệp sản xuất ngành tiêu dùng đặc biệt là công nghiệp chế biến thực phẩm và đồ uống, ngành dệt may, da, giầy. Đây là hai ngành chiếm tỷ trọng lớn và có tốc độ tăng trưởng cao. Cùng với sự phát triển của công nghiệp chế biến nông - lâm - hải sản, ở TP.HCM đã hình thành một số ngành công nghiệp phù hợp với lợi thế của thành phố và nhu cầu của thị trường như công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp chế tạo cơ khí, hóa chất. Các ngành công nghiệp này cũng đã có một vị trí đáng kể trong quá trình phát triển kinh tế của

thành phố và đã thúc đẩy CDCCKT nội bộ ngành.

c. Chuyển dịch nội bộ ngành dịch vụ

Trong các năm trở lại đây khu vực dịch vụ của TP.HCM vẫn có tốc độ tăng trưởng cao và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu ngành. Trong đó bốn ngành dịch vụ gồm: Tài chính-ngân hàng, du lịch, vận tải, dịch vụ cảng, kho bãi và bưu chính viễn thông vẫn là những ngành mũi nhọn, cho thấy sự chuyển dịch ngành dịch vụ là đúng hướng. Mặc dù, tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ có hàm lượng khoa học kỹ thuật và giá trị gia tăng cao chiếm tỷ trọng còn thấp trong cơ cấu GDP, nhưng đang có xu hướng tăng trưởng phù hợp với mục đích CDCCKT của thành phố theo hướng phát huy lợi thế cạnh tranh. Sự phát triển của khu vực dịch vụ trên địa bàn TP.HCM đã và đang gắn liền với quá trình phát triển công nghiệp của cả vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và kinh tế của cả nước.

Ngành dịch vụ của TP.HCM có tốc độ tăng trưởng khá ổn định và vững chắc. Căn cứ vào số liệu thống kê, trong tương quan so sánh với ngành Công nghiệp – xây dựng có thể nhận thấy tăng trưởng ngành dịch vụ được chia ra hai giai đoạn. Giai đoạn 1993-2005, tăng trưởng bình quân hàng năm là 9,3%, thấp hơn tăng trưởng ngành Công nghiêp – xây dựng. Tuy nhiên kể từ năm 2006 tăng trưởng dịch vụ có xu hướng cao hơn ngành công nghiệp, trừ năm 2011. Về mặt cơ cấu nội bộ ngành có thể thấy rõ qua số liệu ở bảng sau:

Bảng 3.5. Cơ cấu GDP của ngành dịch vụ TP.HCM (1993-2012)

Đơn vị tính: %

Năm

1993

1995

2000

2005

2009

2010

2011

2012

100

100

100

100

100

100

100

100

Thương nghiệp

29,15

30,09

31,58

31,81

31,85

21,72

21,97

22,20

Khách sạn, nhà hàng

11,11

14,85

15,31

14,87

14,63

5,65

5,83

5,79

Vận tải, bưu điện, kho bãi

11,35

13,35

14,18

15,87

17,07

17,89

17,87

19,77

Tài chính, tín dụng

3,83

5,87

6,23

10,57

21,9

20,26

22,38

18,75

Khoa học công nghệ

0,56

0,68

0,86

1,13

1,30

7,59

8,18

9,08

Dịch vụ khác

44

35,16

31,84

25,75

13,25

26,89

23,77

24,41

Khu vực III (%)

Nguồn: Niên giám thống kê TP.HCM (1993-2012)

- Ngành thương nghiệp: đây là ngành truyền thống, đặc trưng của phát triển đô

thị, phát triển kinh tế. Thời gian qua nhờ

chủ

trương lưu thông hàng hóa tự

do,

khuyến khích phát triển xuất nhập khẩu cùng với xu hướng tiếp cận thị trường của các nhà sản xuất, đã hình thành một lực lượng hoạt động thương nghiệp và hoạt động quảng cáo nên ngành này đã phát triển phong phú và đa dạng. Trong cơ cấu của ngành dịch vụ, tỷ trọng thương nghiệp chiếm tỷ trọng cao nhất, năm 1993 chiếm 29,15%, năm 1995 chiếm 30,09%, năm 2000 chiếm 31,58%, 2005 chiếm 31,81% và

năm 2009 chiếm 31,85% và năm 2012 chiếm 22,2%.

- Ngành khách sạn, nhà hàng: với sự phát triển du lịch, với vai trò là trung tâm giao lưu nhiều mặt của khu vực và cả nước, hoạt động khách sạn nhà hàng cũng đã phát triển khá mạnh mẽ (14,33%/năm) giai đoạn 1993 – 1997; giai đoạn 1998-2009 tốc độ đạt tới 22,2%/năm; giai đoạn 2010 – 2012 đạt 23,4%/ năm. Với chủ trương

phát triển ngành du lịch và mức độ đầu tư xây dựng như hiện nay, nhịp độ tăng

trưởng của ngành này sẽ tiếp tục tăng cao cho đến những năm tiếp theo. Tỷ trọng ngành này đã giảm từ 11,11% năm 1993 xuống còn 5,79% năm 2012.

- Ngành vận tải, kho bãi, bưu điện: hệ thống thông tin bưu điện viễn thông đã được tập trung đầu tư hiện đại, mạng lưới hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt và đường hàng không phát triển, là những ngành này yếu tố làm nên tốc độ tăng trưởng khá cao của ngành. Ngành vận tải, bưu điện, kho bãi cũng chiếm tỷ trọng cao, năm 1993 chiếm 11,35%, năm 2009 chiếm 17,07% và tăng lên 19,77% năm 2012. Hướng phát triển của ngành là tiếp tục nâng cao tốc độ tăng trưởng hơn nữa trên cơ sở việc hiện đại hóa của toàn ngành, đặc biệt là ngành giao thông vận tải.

- Ngành tài chính, tín dụng: việc củng cố hoạt động ngân hàng (Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước), luật thuế được hình thành và tăng cường chế độ kế toán thống kê, đã làm cho hoạt động tài chính - ngân hàng đạt mức độ tăng trưởng cao. Ngành tài chính, tín dụng có tốc độ tăng trưởng rất nhanh làm tăng nhanh tỷ trọng trong thời kỳ, nếu năm 1993 chỉ chiếm 3,83% thì đến năm 2009 đã đạt 21,9% và 18,75% năm 2012. Hướng sắp tới nhờ việc hình thành thị trường chứng khoán, hoạt động tài chính tín dụng sẽ trở nên phong phú và sẽ phát triển cao, với mục tiêu phấn đấu đưa thành phố thành trung tâm tài chính quốc gia, nhịp độ tăng trưởng cũng như tỷ trọng của

ngành trong GDP sẽ tăng cao hơn nữa.

- Hoạt động khoa học, công nghệ: hoạt động này làm nền tảng cho phát triển sản xuất, nó luôn luôn phải đi trước sản xuất. Đóng góp của ngành này vào tăng trưởng khu vực dịch vụ nói riêng và nền kinh tế nói chung ngày càng được khẳng định. Vào năm 1993, Khoa học-công nghệ còn chiếm tỷ trọng nhỏ (chiếm 0,56%), đến năm 2010 tăng lên 7,59%, và năm 2012 tăng lên 9,08% . Trong thời gian qua giá trị gia tăng của ngành này tuy có tăng trưởng nhưng chưa thực sự là tác nhân chính thúc đẩy sản xuất đi lên. Do đó trong thời gian tới, cần đẩy mạnh hoạt động này hơn nữa.

- Các ngành dịch vụ còn lại: trong số các ngành này, giáo dục đào tạo, y tế và văn hóa - thể dục thể thao sẽ gia tăng nhịp độ phát triển nhằm nâng cao trình độ dân trí và đời sống tinh thần người dân, đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Các ngành quản lý nhà nước và an ninh quốc phòng, hoạt động Đảng - Đoàn thể sẽ giảm nhịp độ tăng và tất yếu sẽ giảm tỷ trọng trong

GDP, các hoạt động phục vụ cá nhân, cộng đồng, hoạt động liên quan đến kinh

doanh tài sản và dịch vụ tư vấn, hoạt động làm thuê công việc gia đình sẽ ít biến động. Riêng hoạt động của các tổ chức quốc tế cũng sẽ gia tăng do quá trình hòa nhập của Việt Nam vào thế giới.

3.2.2.3. Chuyển dịch cơ cấu lao động

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế có liên quan rất nhiều đến số lượng và chất lượng nguồn lao động. Hàm lượng lao động có kỹ thuật, có tri thức kết tinh trong sản phẩm càng nhiều càng tạo ra năng suất lao động cao và dẫn đến giá trị tăng thêm cho ngành, lĩnh vực càng cao.

Bảng 3.6. Số lượng và cơ cấu lao động của TP.HCM phân theo khu vực kinh tế (1993-2012)

Đơn vị tính: 1.000 người; %



Năm


Tổng số Lao động

N-L-NN

CN-XD

DV

Số lượng

Tỷ trọng(%

)

Số lượng

Tỷ trọng(%

)

Số lượng

Tỷ trọng(%)

1993

1.668.000

243.886

14,62

900.737

54,00

523.377

31,38

1995

1.740.611

238.893

13,72

676.098

38,84

825.620

47,43

2000

2.241.434

142.091

6,34

1.087.242

48,51

1.012.101

45,15

2005

2.676.420

145.282

5,43

1.226.932

45,84

1.304.206

48,73

2010

3.696.400

158.205

4,28

1.524.387

41,24

2.013.800

54,48

2011

3.826.600

159.952

4,18

1.565.466

40,91

2.101.200

54,91

2012

3.963.800

164.099

4,14

1.575.990

39,76

2.223.700

56,10

Nguồn: Niên giám thống kê TP.HCM

Nhìn vào bảng 3.6, ta thấy cơ cấu lao động của TP.HCM chuyển dịch khá rõ rệt.

Trải qua gần 20 năm tỷ lệ lao động nông - lâm - ngư nghiệp giảm trên 10%, từ

14,62% năm 1993 xuống còn 4,14% năm 2012; tỷ lệ lao động ngành công nghiệp -

xây dựng chuyển dịch theo hướng giảm xuống nhưng với tốc độ chậm, tỷ lệ lao động ngành dịch vụ tăng khá nhanh từ 31,38% năm 1993 lên 56,1 % năm 2012. Tốc

độ tăng lao động bình quân hàng năm giai đoạn 1993-2012 khoảng 3%. Tuy nhiên

trình độ học vấn và tay nghề vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu kỹ thuật cao. Nhờ chuyển dịch cơ cấu lao động theo xu hướng tích cực, nên đã có tác động tích cực đến năng suất lao động xã hội. Theo số liệu thống kê, giai đoạn 1991 – 2010 năng suất lao động trên địa bàn thành phố tăng 6,31%/năm, cao hơn so với tốc độ tăng năng suất lao động của cả nước.

Khủng hoảng kinh tế toàn cầu xảy ra 2007-2008, đã có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiến đến nền kinh tế nước ta nói chung, TP.HCM nói riêng. Từ số liệu thu thập trong các năm, từ 2006 đến 2012 ta thấy sự chuyển dịch cơ cấu lao động trong các ngành. Với số liệu 10 ngành phi nông nghiệp chủ yếu trên địa bàn TP.HCM cho thấy, tổng số lao động của 10 ngành chiếm trên 98,0% tổng số; Trong đó có 3 ngành chiếm tỷ trọng lớn nhất: Ngành Công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng lao động lớn

nhất, từ 56,1% năm 2006 có xu hướng giảm, còn 44,8% năm 2009 và 42,1% năm

2012; Ngành Thương nghiệp, sửa chữa xe có động cơ, chiếm khoảng 13,1% năm 2006 và có xu hướng tăng lên, chiếm 17,0% vào năm 2009 và 18,2% năm 2012; Ngành xây dựng chiếm 11,1% năm 2006 cũng có xu hướng tăng, chiếm 12,7% vào năm 2009 và 12,9% năm 2012; Các ngành còn lại chiếm dưới 10%, gồm lần lượt các ngành Vận tải kho bãi; Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ; Hoạt động chuyên môn và khoa học công nghệ; Tài chính, ngân hàng và bảo hiểm; Khách sạn nhà hàng; Thông tin truyền thông và Hoạt động kinh doanh bất động sản.

Xét về năng suất lao động, trong các ngành dịch vụ, ngành có tỷ trọng lao động cao nhất là ngành tư vấn và kinh doanh bất động sản. Trong 4 năm gần đây, năng suất trung bình cao nhất và ổn định nhất, đạt từ 697,2 triệu đồng/lao động năm 2006, đến năm 2009 vẫn đạt 690,6 triệu đồng/lao động. Ngành thứ hai đang có sức vươn lên mạnh mẽ, đó là ngành Tài chính, tín dụng. Năng suất lao động của ngành này tăng từ 364,2 triệu đồng/lao động năm 2006, tăng lên đứng đầu vào năm 2009, đạt 751,7 triệu đồng/ lao động. Điều này dễ dàng nhận ra sự tăng lên về hoạt động cho vay do các doanh nghiệp cần nhiều vốn để khắc phục khủng hoảng; nhưng đồng thời sự thay cơ chế hoạt động cũng tác động đáng kể. Xu hướng tăng nhanh của ngành Tài chính, tín dụng sẽ là động lực thúc đẩy dịch vụ và đóng góp vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành dịch vụ hơn, phù hợp với vai trò của một đô thị lớn như TP.HCM cần phải chuyển dịch nhanh hơn nữa tỷ trọng các ngành dịch vụ trong tổng giá trị gia tăng.

Một ngành dịch vụ quan trọng nữa là Vận tải kho bãi và thông tin liên lạc là một ngành có nhiều triển vọng. Kết quả trong 4 năm qua, năng suất lao động của khu vực

này tuy không cao lắm, nhưng khá ổn định, tăng từ 200,4 triệu đồng/lao động lên 351,6 triệu đồng/lao động năm 2008. Ngành khách sạn nhà hàng cũng có năng suất lao

động khá

ổn định, từ

246,7 triệu đồng/lao động năm 2006, tăng lên 290,5 triệu

đồng/lao động năm 2008 và 264,2 triệu đồng năm 2009.

Cả bốn ngành dịch vụ này có năng suất lao động cao và ổn định hơn cả, nhưng chiếm tỷ lệ lao động thấp và giá trị gia tăng thấp: Ngành tư vấn và kinh doanh bất động sản chỉ chiếm 1,5% lao động tạo ra 5,6% giá trị tăng trưởng; Ngành Tài chính tín dụng chiểm 2,8% lao động, nhưng tạo ra 12,1% giá trị tăng trưởng; Vận tải kho bãi chiếm cao hơn: 7,5% lao động, nhưng tạo ra 8,9% giá trị tăng trưởng (năm 2009); Khách sạn nhà hàng chiếm 2,7% lao động, nhưng tạo ra 3,9% giá trị tăng trưởng.

Bảng 3.7. Cơ cấu lao động một số ngành (%)


Ngành

2006

2007

2008

2009

2011

2012

1.Công nghiệp chế biến

56,1

53,9

49,2

44,8

43,9

43,1

2.Thương nghiệp, sửa chữa xe có động cơ,…

13,1

13,5

16,2

17,0

17,7

18,2

3.Xây dựng

11,1

11,4

12,1

12,7

12,6

12,9

4.Vận tải, kho bãi

7,3

6,9

6,7

7,5

7,5

7,9

5.Hoạt động hành chính và dịch vụ hổ trợ

2,8

2,8

2,7

3,7

3,5

3,3

6.Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ

2,4

2,6

3,4

3,6

3,9

3,7

7.Tài chính, ngân hàng và bảo hiểm

1,5

2,1

2,5

2,8

2,6

2,9

8.Khách sạn và nhà hàng

2,2

2,4

2,3

2,7

2,9

3,1

9.Thông tin truyền thông

1,9

1,8

2,1

2,2

2,3

2,1

10.Hoạt động kinh doanh bất động sản

1,0

1,2

1,4

1,5

1,7

1,6

Các ngành còn lại

0,5

1,6

1,4

1,6

1,4

1,2

Tổng số

100,0

100,0

100,0

100,0

100

100

Nguồn: Niên giám thống kê TP.HCM, 2010-2012

Các ngành chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị gia tăng lại có năng suất lao

động thấp hơn. Công nghiệp chế biến chiếm trên 50,0% lao động, năng suất lao

động đạt 143,5 triệu đồng/lao động, tạo ra 37,4% giá trị tăng trưởng. Ngành Thương nghiệp, sửa chữa xe động cơ chiếm 17,0% lao động, năng suất 135,0 triệu động/lao động; tạo ra 13,4% giá trị tăng trưởng.

Riêng lĩnh vực Hoạt động khoa học và công nghệ là ngành mũi nhọn, tỷ trọng lao động chiếm 3,4% lao động, năng suất chỉ đạt 10,8 triệu đồng/người, chỉ tạo ra 0,2% giá trị tăng trưởng.

Bảng 3.8. Năng suất lao động ở một số ngành

Đơn vị: Triệu đồng


TT

Ngành

2005

2007

2008

2009


1

Tài chính, tín dụng

364,4

576,9

712,1

751,7

2

Kinh doanh tài sản và tư vấn

697,2

694,6

719,2

690,6

3

Vận tải kho bãi, thông tin liên lạc

200,4

261,3

351,6

303,0

4

Khách sạn và nhà hàng

246,7

264,4

290,5

264,2

5

CN chế biến

78,7

98,6

123,1

143,5

6

Thương nghiệp, sửa chữa xe có động cơ

103,0

123,4

133,1

135,0

7

Hoạt động khoa học và công nghệ

13,2

13,6

11,3

10,8

Nguồn: Niên giám thống kê TP.HCM, 2010

3.2.2.4.Về cơ cấu xuất khẩu

Cũng như đầu tư, xuất khẩu là một trong hai nhân tố quan trọng nhất tạo ra tăng trưởng kinh tế và CDCCKT. Ngược lại cơ cấu xuất khẩu, trước hết là cơ cấu mặt hàng xuất khẩu lại là bức tranh phản ánh trạng thái của cơ cấu kinh tế. Xuất khẩu là một thế mạnh của TP.HCM, xuất khẩu liên tục tăng trong suốt thời gian qua. Nếu như năm 1993 Thành phố chỉ đạt kim ngạch 1.655 triệu USD, năm 1998 đạt 3.722 triệu USD (gấp 2,2 lần) thì đến năm 2012 đạt 29.915 triệu USD ( gấp 18 lần), tốc độ tăng xuất khẩu luôn đạt cao khoảng 25%/năm, là nguồn thu quan trọng cho ngân sách thành phố. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực là đồ gỗ tinh chế, các mặt hàng nông - lâm - thuỷ sản, thủ công mỹ nghệ, khoáng sản, hàng tiêu dùng,...

Bảng 3.9. Một số chỉ tiêu đánh giá xuất nhập khẩu TP.HCM giai đoạn (1993-2012)


Năm

Giá trị xuất khẩu

(triệu USD)

Tăng trưởng xuất khẩu

(%)

Giá trị nhập khẩu

(triệu USD)

Tăng trưởng nhập khẩu hàng năm (%)

1993

2.941

63,9

3.667

64,5

1998

3.722

-2,7

3.620

-8,8

1999

4.599

23,5

3.368

-9,3

2000

8.177

77,7

5.678

68,5

2005

15.258

21,3

9.708

15,7

2008

24.081

24

18.865

30,2

2009

20.078

-16,6

15.390

-18,4

2010

22.553

12,3

21.955

12,7

2011

28.181

25,0

27.396

24,8

2012

29.915

6,2

26.303

-4,0

Nguồn: Niên giám thống kê TP.HCM 1993-2012

Ở thời kỳ 2001-2010, tốc độ tăng trưởng đạt bình quân 9,9%/năm; trong đó, ở thời kỳ 2001-2005 đạt 13,3%/năm; thời kỳ sau, 2006-2010 giảm còn một nửa so với thời kỳ trước, chỉ đạt 6,6%/năm. Nếu so với cả nước tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cả nước luôn luôn đạt ở mức rất cao; bình quân 10 năm (2001-2010) đạt 17,3%/năm; ở thời kỳ 5 năm 2001-2005 đạt 17,5%/năm; thời kỳ sau chỉ giảm nhẹ, còn 17,2%/năm.

Xem tất cả 172 trang.

Ngày đăng: 09/10/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí