Bảng 2.7. Xếp hạng cơ sở lưu trú ở ĐBSCL năm 2008
Tổng số CSLT | 1 sao | 2 sao | 3 sao | 4 sao | |||||||
Cơ sở | Buồng | CSSD (%) | Cơ sở | Buồng | Cơ sở | Buồng | Cơ sở | Buồng | Cơ sở | Buồng | |
Đồng Tháp | 29 | 655 | 52 | 5 | 79 | 5 | 251 | 1 | 45 | 0 | 0 |
Long An | 47 | 863 | 65 | 5 | 100 | 2 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 |
Tiền Giang | 75 | 1279 | 59 | 13 | 276 | 1 | 27 | 0 | 0 | 0 | 0 |
An Giang | 77 | 1.749 | 40 | 23 | 532 | 10 | 308 | 1 | 58 | 1 | 92 |
Bạc Liêu | 20 | 402 | 65 | 3 | 65 | 1 | 24 | 1 | 70 | 0 | 0 |
Bến Tre | 37 | 614 | 65 | 1 | 20 | 2 | 70 | 1 | 66 | 0 | 0 |
Cà Mau | 37 | 1.084 | 68 | 9 | 250 | 5 | 200 | 2 | 100 | 0 | 0 |
Cần Thơ | 156 | 3.737 | 59 | 4 | 114 | 12 | 419 | 7 | 348 | 2 | 196 |
Hậu Giang | 21 | 279 | 75 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 |
Kiên Giang | 195 | 3.623 | 51 | 4 | 227 | 2 | 96 | 0 | 0 | 1 | 90 |
Sóc Trăng | 25 | 687 | 52 | 10 | 180 | 7 | 220 | 1 | 124 | 0 | 0 |
Trà Vinh | 38 | 536 | 47 | 7 | 103 | 3 | 42 | 1 | 53 | 0 | 0 |
Vĩnh Long | 57 | 1.000 | 46 | 4 | 106 | 4 | 158 | 0 | 0 | 0 | 0 |
Tổng số | 814 | 16.508 | 57,23 | 88 | 2.052 | 54 | 1.915 | 15 | 864 | 4 | 378 |
Có thể bạn quan tâm!
- Tiềm Năng Lễ Hội Truyền Thống Ở Đbscl Trong Phát Triển Du Lịch
- Nghiên cứu lễ hội truyền thống đồng bằng Sông Cửu Long phục vụ phát triển du lịch - 8
- Thực Trạng Khai Thác Các Lễ Hội Truyền Thống Trong Phát Triển Du Lịch Ở Đbscl
- Một Số Địa Bàn Du Lịch Lễ Hội Trọng Điểm
- Đánh Giá Chung Về Thực Trạng Phát Triển Du Lịch Lễ Hội Của Vùng
- Tăng Cường Công Tác Thanh Tra, Kiểm Tra, Rà Soát Các Thủ Tục, Hồ Sơ Xin Cấp Giấy Phép Tổ Chức Lễ Hội Và Các Quy Định Báo Cáo Tổ Chức Lễ Hội
Xem toàn bộ 145 trang tài liệu này.
* CSSD: công suất sử dụng
Nguồn: Viện Nghiên cứu phát triển du lịch Việt Nam, 2010
Những năm qua, du lịch ĐBSCL phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và vị thế so sánh của vùng do một số nguyên nhân chính sau đây:
- Nhận thức xã hội về du lịch còn hạn chế.
- Chưa có điều tra, khảo sát và lập quy hoạch phát triển du lịch vùng ĐBSCL và từng tỉnh, thiếu thông tin về nhiều điểm đến du lịch ở ĐBSCL.
- Nguồn nhân lực du lịch còn thiếu và yếu, bộ máy quản lý nhà nước về du lịch chưa ổn định và thiếu sự quan tâm từ nhiều cấp.
- Chất lượng sản phẩm du lịch chưa cao, thiếu tính độc đáo, thường trùng lắp giữa các địa phương trong vùng, gây cảm giác nhàm chán từ du khách.
- Các công ty lữ hành ở khu vực ĐBSCL còn nhỏ về quy mô, yếu về nghiệp vụ, thường làm dịch vụ cho các Công ty du lịch ở TP.HCM, Hà Nội và các trung tâm du lịch lớn trong nước, chưa đủ mạnh và đủ tầm.
- Cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch còn yếu kém, chưa được đầu tư đúng mức và đồng bộ, rất hạn chế. Nhiều điểm du lịch rất hấp dẫn nhưng cơ sở hạ tầng và dịch vụ quá sơ sài và nghèo nàn.
- Công tác tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch vùng ĐBSCL chưa được chú trọng đúng mức, còn bị động;
- Thiếu sự liên kết, hợp tác trong quản lý và hoạt động du lịch giữa các tỉnh thành trong khu vực và cả vùng với các tỉnh thành trong cả nước;
- Kinh phí đầu tư cho du lịch ĐBSCL chưa được lãnh đạo các địa phương và TW quan tâm thích đáng.
2.3.2. Thực trạng khai thác lễ hội truyền thống trong phát triển du lịch ở ĐBSCL
2.3.2.1. Khách du lịch lễ hội
Trong những năm qua khách đến ĐBSCL đã tăng lên đáng kể, đó cũng là một tín hiệu đáng mừng tuy là vẫn còn rất nhiều băn khoăn, trăn trở về hiệu quả khai thác sản phẩm du lịch của vùng. Riêng đối với khách du lịch lễ hội truyền thống ở ĐBSCL cũng, đặc biệt là lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam chiếm một tỉ trọng lớn trong cơ khách du lịch của vùng.
Bảng 2.8. Lượt khách du lịch lễ hội ở ĐBSCL giai đoạn 2008 - 2010
Đơn vị: lượt khách
2008 | 2009 | 2010 | |
Vía Bà Chúa Xứ núi Sam(*) | 2.620.000 | 3.019.000 | 3.484.000 |
Bà Chúa Xứ Gò Tháp (**) | 300.000 | 350.000 | 400.000 |
Nguyễn Trung Trực | 650.000 | 700.000 | 750.000 |
Quán Âm Nam Hải | 15.000 | 25.000 | 50.000 |
Cúng biển Mỹ Long | 15.000 | 15.000 | 16.000 |
Nghinh Ông Gành Hào | - | 15.000 | 15.000 |
Tao đàn Chiêu Anh Các | 5.000 | 45.000 | 10.000 |
Đua Bò Bảy Núi | 30.000 | 25.000 | 30.000 |
Ok Om Bok và đua ghe Ngo (Sóc Trăng) | - | 450.000 | 500.000 |
Nguồn: Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch các tỉnh
(*) Thống kê lượt khách tham dự cả trước và sau lễ hội (**) Thống kê hai đợt lễ hội tháng 3 và tháng 11(Âm lịch)
Qua bảng 2.8 thống kê về thực trạng khách du lịch lễ hội ở ĐBSCL, chúng ta thấy rằng có sự phân hóa rất rõ rệt. Lễ hội có sức hút lớn nhất vùng đó là lễ hội Bà Chúa Xứ núi Sam, đây là lễ hội lớn nhất miền Nam và có tầm vóc, sức hút không thua gì các lễ hội Xuân
miền Bắc. Trong năm 2010, tổng lượt khách đến An Giang là 5.190.000 lượt thì trong đó có đến 3.484.000 lượt có đến lễ hội, hoặc tham quan miếu Bà.
Tiếp theo phải kể đến các lễ hội thu hút hàng trăm nghìn lượt khách và tăng dần qua từng năm là lễ hội Nguyễn Trung Trực, Gò Tháp, lễ Ok Om Bok và hội đua ghe Ngo (Sóc Trăng). Các lễ hội như cúng biển Mỹ Long, Nghinh Ông Gành Hào, Quán Âm Nam Hải,… cũng thu hút hàng chục ngàn khách du lịch và theo sự báo cũng như hy vọng rằng trong tương lai, các lễ hội này ngày càng được quan tâm, công tác tổ chức, chương trình lễ hội, các dịch vụ kèm theo hấp dẫn, đường sá thuận tiện để có thể thu hút được càng đông du khách đến tham dự.
Ở ĐBSCL, nếu như loại hình du lịch miệt vườn, sinh thái, biển đảo thu hút nhiều đối tượng du khách, thì đối tượng khách của du lịch lễ hội truyền thống lại bị chi phối bỏi các yếu tố như lứa tuổi, trình độc học vấn, thu nhập,… Viện nghiên cứu phát triển du lịch Việt Nam đã đưa ra một số kết quả qua khảo sát được ở bảng 2.9.
Bảng 2.9. Đối tượng khách du lịch lễ hội truyền thống ở ĐBSCL
Ưu tiên 1 ++++ | Ưu tiên 2 +++ | Ưu tiên 3 ++ | Ưu tiên 4 + | |
Lứa tuổi: - Dưới 18 tuổi - Từ 18 – 30 - Từ 31 – 55 - Trên 55 | ++++ | ++ ++ ++ | ||
Trình độ văn hóa: - Thấp - Trung bình - Cao | ++++ | +++ | + | |
Thu nhập: - Thấp - Trung bình - Cao | +++ | ++ | + | |
Hoàn cảnh gia đình: - Độc thân - Cặp vợ chồng - Gia đình có trẻ con | +++ | ++ | + | |
Hình thức đi du lịch: - Đi lẻ - Theo Tour, nhóm | +++ | ++ |
Nguồn: Viện nghiên cứu phát triển du lịch Việt Nam 2010
Qua bảng điều tra khảo sát, chúng ta dễ dàng nhận thấy đối tượng khách du lịch lễ hội ở ĐBSCL trước hết đó là người cao tuổi và người có trình độ văn hóa cao. Đối với một sản phẩm du lịch của văn hóa, trước tiên nó sẽ có sức hút đối với những người quan tâm nó và họ thường không ai khác là những người lớn tuổi, họ thích đến những điểm du lịch tâm linh, tín ngưỡng cũng như như những người độ văn hóa cao thì đây cũng là một sản phẩm du lịch hết sức thú vị đối với họ.
Trong quá trình đi thực địa đến các điểm du lịch lễ hội ở ĐBSCL, tác giả quan sát và nhận thấy rằng cũng có sự góp mặt tham gia của một lượng nhỏ khách quốc tế, nhiều nhất là ở các lễ hội Bà Chúa Xứ núi Sam, Ok Ok Bok và đua ghe Ngo (Sóc Trăng),… các lễ hội còn lại rất ít, một số nơi không nhìn thấy. Qua đó, chúng ta thấy một thực trạng là các lễ hội ở đây chưa thật sự thu hút khách quốc tế, một nguyên nhân gây ra tình trạng này nữa là công tác quảng bá, xúc tiến của các cơ quan ban ngành, các công ty du lịch, chưa tiếp thị điểm đến, nối tour để có thể làm chiếc cầu nối khách quốc tế đến với lễ hội nói riêng và tìm hiểu văn hóa vùng châu thổ nói chung. Ngay cả Ban quản lý di tích, Ban tổ chức lễ hội, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch các tỉnh cũng chưa có thống kê đầy đủ, chính xác về lượt khách quốc tế (thậm chí tổng lượt khách) đến lễ hội. Cho nên trong quá trình thu thập dữ liệu, tác giả không thể xin được số liệu về lượt khách quốc tế đến với lễ hội của vùng, mà việc đánh giá thực trạng chỉ thống qua quan sát, hỏi người dân địa phương.
Thống kê khách du lịch ta thấy con số cũng ấn tượng, lễ hội truyền thống của chúng ta cũng đã thu hút được một lượng khách đến từ vùng miền khác, đặc biệt là thị trường rất tiềm năng là TPHCM, Đông Nam Bộ. Tuy nhiên, nếu nghiên cứu kỹ chúng ta sẽ thấy chủ yếu đến với lễ hội truyền thống vẫn là người dân địa phương, có thể cùng tỉnh hoặc những địa phương phụ cận. Đa số khách địa phương đến với lễ hội truyền thông của vùng đều không vì mục đích đi để thay đổi không khí, đi để tận hưởng, đi để khám phá như một chuyến du lịch đúng tên gọi, đúng ý nghĩa của nó mà họ đến đây vì vấn đề tín ngưỡng, tâm linh, cầu tự, khấn nguyện,... nhiều hơn.
Thực tế, khách quốc tế đi theo tour mua trước thường ít khi đi lễ hội bởi lễ hội cố định về thời gian. Khách quốc tế đến lễ hội thường là người am hiểu về văn hóa, có thời gian đi du lịch dài ngày, ngoài ra còn có khách Tây ba lô, họ rất thích các lễ hội của đồng bào dân tộc. Tuy nhiên, đối tượng khách quốc tế này lại không nhiều, khả năng chi trả thấp nên họ tự đi là chính. Đối tượng khách đi du lịch lễ hội ở ĐBSCL tập trung chủ yếu là khách địa phương và cũng thu hút một lượng không nhỏ Việt kiều về thăm quê.
Tuy nhiên để những lễ hội này có thể thu hút được thị trường khách ngoại vùng, đặc biệt là khách quốc tế thì cần được nghiên cứu tổ chức theo hướng phục vụ du lịch, và đặc biệt là có các nội dung và phương thức quảng bá, xúc tiến phù hợp.
2.3.2.2. Hoạt động khai thác du lịch
Về công tác tổ chức, quản lý
Hiện tại, hoạt động du lịch lễ hội truyền thống vùng ĐBSCL diễn ra một cách tự phát nên khâu tổ chức, quản lý và thống kê du lịch còn hạn chế và gặp nhiều khó khăn. Đây là tình trạng phổ biến đối với nhiều loại hình du lịch khác ở Việt Nam khi mà địa bàn hoạt động du lịch không nằm hẳn trong một điểm, một tỉnh cụ thể. Nói chung, công tác thống kê về du lịch của Việt Nam hiện nay chưa tốt, chỉ mới dừng lại ở việc thống kê du lịch chung trên cơ sở từng điểm, tỉnh, vùng, cả nước chứ chưa phân ra được theo từng loại hình du lịch cụ thể. Chính điều này ảnh hưởng rất lớn đến công tác nghiên cứu nhằm phản ánh xu thế phát triển và thiếu cơ sở cho việc nhận định tình hình và dự báo tương lai.
Trong những năm qua, chúng ta thấy lượng khách lễ hội ở ĐBSCL ngày một tăng ngày một tăng lên, điều này có nhiều nguyên nhân trong đó có lý do là điều kiện, chất lượng sống của người dân ngày càng một cải thiện nên nhu cầu đi đến những điểm lễ hội ngày một tăng. Một lý do nữa là hiện nay, lễ hội truyền thống đã được nhiều địa phương trong vùng quan tâm, đưa vào làm sản phẩm khai thác trong chiến lược phát triển du lịch của địa phương mình.
Về cơ bản, vấn đề thúc đẩy lễ hội truyền thống phát triển và phục vụ cho du lịch đã được Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc các cấp và các ngành chức tạo điều kiện thuận lợi trong công tác tổ chức, quản lý. Ngành Văn hoá Du lịch chỉ đạo và hướng dẫn thành lập Ban tổ chức lễ hội, kế hoạch phân công trách nhiệm các tiểu ban, soạn thảo chương trình, thời gian nghi lễ, nội dung hoạt động hội, thành lập Ban quý tế, Ban quản trị, các biện pháp bảo vệ an toàn trật tự, các chương trình diễn ra trong các ngày lễ hội,… Ngoài ra còn tổ chức triển khai, kiểm tra việc thực hiện Quy chế tổ chức lễ hội, quản lý lễ hội, hỗ trợ nghiệp vụ và chủ động giúp đỡ Ban tổ chức lễ hội. Về cơ bản chấp hành tốt Quy chế tổ chức lễ hội của Bộ Văn hoá thể thao và du lịch. Vì vậy đã giảm bớt các hủ tục lạc hậu, giản lược nghi lễ, hạn chế việc tổ chức linh đình gây lãng phí hoặc lợi dụng lễ hội để hành nghề mê tín dị đoan, đảm bảo an ninh trật tự cho lễ hội, phần nào tạo sự an tầm cho du khách.
Các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao trong lễ hội truyền thống được nhiều người tham gia tạo nên sự đồng cảm sâu sắc. Nhiều nơi tổ chức thi ẩm thực, Tổ chức văn
nghệ (người Hoa có múa, hát Tiều, hát Quảng, hát bội, người Khmer có hát dù kê, lăm liu, saravan, aday, múa room -vông, người Kinh có đờn ca tài tử,…). Các hoạt động thể thao, trò chơi dân gian (người Hoa có biểu diễn võ thuật, múa lân, cờ tướng,... người Khmer có đua ghe ngo, nhảy bao, kéo co, đập nồi, đẩy gậy; người Kinh có đua thuyền, thi đố, biểu diễn thư pháp,...). Ngoài ra còn có nhiều hoạt động văn hoá khác đáp ứng được nhu cầu dự hội của người dân bản địa và khách thập phương.
Chẳng hạn như ở Sóc Trăng năm 2008, tỉnh đã tổ chức Tuần Văn hóa lễ hội Ok Om Bok – đua ghe Ngo lần thứ 1 tạo tiền đề nâng cấp lễ hội thành Festival cấp khu vực; tổ chức hội chợ thu hút gần 400 gian hàng thương mại, triển lãm. Bên cạnh đó là tổ chức biểu diễn văn nghệ, thể thao, hội thao, trưng bày hiện vật thành chuỗi hoạt động sôi nổi, vừa tạo sân chơi hấp dẫn, vừa đáp ứng nhu cầu giải trí, giao lưu văn hóa và mua sắm cho nhân dân trong vùng,... Để tạo điều kiện cho lễ hội hoạt động thuận lợi, từ nguồn kinh phí của Trung ương hỗ trợ, tỉnh đã đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch như: khán đài, bờ kè, đường đua ghe ngo dài gần 3.000m dọc bên bờ sông Maspero tại thành phố Sóc Trăng với tổng kinh phí khoảng 200 tỷ đồng phục vụ cho hội đua ghe ngo diễn ra mỗi năm hai lần trong dịp lễ hội Ok Om Bok truyền thống của đồng bào Khmer. Lễ hội Ok Om Bok ua ghe ngo đã được công nhận là lễ hội du lịch cấp quốc gia, nhằm nâng cấp lễ hội xứng tầm với h́nh thức, quy mô, nội dung, ý nghĩa vốn có, Sở Văn hóa Thể thao Du lịch phối hợp Viện nghiên cứu Văn hóa - Nghệ thuật tiến hành tổ chức hội thảo, phục dựng lễ hội nhằm nâng giá trị của lễ hội thành di sản văn hóa của quốc gia và thế giới. Năm 2011, Sóc Trăng sẽ đăng cai fetival lúa gạo lần hai cùng thời điễm diễn ra lễ hội Ok Om Bok – đua ghe Ngo, đây được xem là một cơ hội rất thuận lợi để Sóc Trăng quảng bá giới thiệu lễ hội đặc sắc này đến đông đảo du khách gần xa. Hiện, công tác đầu tư xây dựng phục vụ cho lễ hội đang được tiến hành, tạo tiền đề cho du lịch lễ hội nói riêng và ngành du lịch của Sóc Trăng phát triển.
Đối với Kiên Giang, nhằm từng bước nâng cấp lễ giỗ anh hùng Nguyễn Trung Trực thành lễ hội cấp vùng và dần tiến tới lễ hội Quốc gia. Năm 2010, ngành Văn hóa Du lịch Kiên Giang kết hợp với Ban trị sự Đình thần Nguyễn Trung Trực đã tổ chức lễ hội rất hoành tráng, với nhiều trò hội, vui chơi giải trí đi kèm rất đặc sắc. Trong thời gian diễn ra lễ hội, nhiều hoạt động thực sự ấn tượng được tổ chức đồng loạt xuyên suốt trong không gian rộng mở ở hầu hết các địa điểm của thành phố Rạch Giá, giới thiệu đến du khách nét văn hoá độc đáo của các dân tộc, đáp ứng nhu cầu thưởng thức văn hoá, nghệ thuật, vui chơi giải trí của nhân dân và du khách. Tại khu văn hóa ẩm thực và triển lãm có 25 gian hàng của các công
ty du lịch, doanh nghiệp đến từ thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ và Kiên Giang. Du khách vừa được thưởng ngoạn những món ăn ngon mang đậm truyền thống của dân tộc vừa được hòa mình vào không khí vui tươi, sôi động của biểu diễn cồng chiêng Tây Nguyên, đờn ca tài tử, thư pháp, võ thuật, giới thiệu làng nghề tiêu biểu của Kiên Giang, trò chơi dân gian. Bên cạnh đó, tại khu vực Công viên Nguyễn Trung Trực, Tự Do, Nhà thiếu nhi tỉnh, Nhà thiếu nhi Lạc Hồng, Trung tâm Văn hoá, Thể thao và Du lịch thành phố Rạch Giá còn có các loại hình hoạt động khác nhau như: biểu diễn nghệ thuật của Đoàn cải lương Nhân dân Kiên Giang, Đoàn nghệ thuật Khmer, Trung tâm Văn hoá tỉnh, biểu diễn Lân – Sư – Rồng, thi cộ hoa, đố thai và các trò chơi dân gian phục vụ đông đảo nhân dân đến tham dự lễ hội.
Lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam cũng được Sở Văn hóa Thể thao Du lịch Giang kết hợp với chính quyền Thị xã Châu Đốc và Ban trị sự, Ban Tổ chức lễ hội tổ chức chương trình lễ hội kết hợp với trò hội phục vụ khách du lịch. Năm 2010, du khách đến những ngày diễn ra lễ hội sẽ được xem các hoạt động văn hoá, thể dục, thể thao như: xem chương trình biểu diễn phục vụ Tuần lễ du lịch văn hoá của các đoàn văn hoá nghệ thuật trong và ngoài tỉnh tại sân khấu Trung tâm Thương mại Núi Sam và Sân khấu Công viên 30/4; giải quần vợt PRINCE CUP thị xã Châu Đốc mở rộng, bóng chuyền nông dân, leo núi truyền thống, Đua thuyền truyền thống, thi đấu cờ tướng, các trò chơi dân gian như Bi sắt, kéo co, đẩy gậy, kéo tay, đập nồi, thả diều, Hội diễn Lân - Sư - Rồng của các Đoàn địa phương và Thành phố Hồ Chí Minh,…
Đối tượng tham gia chính của loại hình du lịch lễ hội dân gian vùng ĐBSCL là những người lớn tuổi, những người có nghề buôn bán, kinh doanh, những sinh viên, nông dân. Họ tham gia lễ hội để cầu may, cầu phúc, cầu lộc, vui chơi giải trí, tìm hiểu. Phương tiện di chuyển chủ yếu là ô tô, vỏ máy, xe máy thuê hoặc của cá nhân. Khách có nhu cầu cao trong việc mua sắm hàng lưu niệm để tặng người thân và bạn bè. Hình thức tổ chức du lịch chủ yếu theo dạng nhóm thông qua việc mua tour của công ty du lịch hoặc tự tổ chức. Số khách đi theo dạng cá nhân rất ít. Do thời gian diễn ra lễ hội tương đối ngắn nên số người lưu trú qua đêm chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ. Điều này làm cho hiệu quả khai thác các lễ hội chưa cao.
Hiện nay đời sống vật chất tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện, những ngày nghỉ vào các dịp lễ tết cũng dài hơn trước đây làm cho lượng khách hành hương về các lễ hội ngày càng đông (như lễ hội Bà chúa Xứ Núi Sam, lễ hội Gò Tháp, lễ hội cúng biển Mỹ Long, lễ hội Nguyễn Trung Trực, lễ hội Okombok và các lễ hội khác rải rác trong
năm,…). Điều đó phần nào vượt mức năng lực tổ chức, quản lý của các địa phương. Mặt khác công tác chuẩn bị của chính quyền các cấp một số nơi chưa chu đáo nên đã biểu hiện một số tồn tại, tiêu cực làm phiền lòng khách thập phương, làm giảm tính tích cực, sự lành mạnh của các lễ hội truyền thống.
Chúng ta thấy, lễ hội cúng Đình, một trong những lễ hội rất đặc trưng và có ở hầu hết các tỉnh thành trong vùng. Tuy là có lịch sử phát triển lâu đời, nhưng hiện nay lễ hội này chủ yếu chỉ còn những người lớn tuổi tham gia với các nghi thức tuy là có giản lược nhưng vẫn đảm bảo tính chất, ý nghĩa của lễ hội. Vấn đề không thu hút giới trẻ quan tâm đến lễ hội truyền thống này có rất nhiều nguyên nhân, trong đó không loại trừ công tác tổ chức đặc biệt là trò hội. Vì thực tế, với nền kinh tế thị trường hiện nay, giá trị truyền thống được đảm bảo và gìn giữ là điều rất cần thiết, tuy nhiên chúng ta cũng phải quan tâm đến đặc điểm tâm lý của giới trẻ ngày nay, họ năng động, hiện đại,… cho nên cần phải có những trò hội, những chương trình hấp dẫn kèm theo thì mới có thể thu hút được đối tượng khách này. Lễ cúng Đình thì phải có hát bội, nhưng hiện nay số người biết hát và các đoàn hát về loại hình nghệ thuật này rất hạn chế và chỉ còn rải rác một vài lễ cúng Đình mời được diễn viên, cho nên phần nào lễ hội cúng Đình trở nên khô khan và dần mất đi sứt hút.
Đưa du khách đến với với lễ hội truyền thống là nhằm để giới thiệu về một vùng đất, con người, tín ngưỡng, các giá trị văn hóa,… ở ĐBSCL nhưng các sản phẩm để cho khách đọc và tìm hiểu về lễ hội như: sách, băng , đĩa,… còn rất sơ sài. Có nơi thậm chí không có cả tờ bướm (brochure) giới thiệu về di tích, không có bản đồ hướng dẫn tham quan, không có bưu ảnh (card postal) in hình di tích và những hình ảnh đặc trưng của lễ hội để khách mua làm kỷ niệm, lễ hội bà Chúa Xứ Gò Tháp là một minh chứng, và hiện tượng này có thể thấy ở nhiều nơi, nhiều lễ hội khác nữa của đồng bằng.
Những hoạt động mang nặng tính chất kinh doanh, thương mại và hành vi ứng xử không đúng mực của người đi dự lễ hội đã phá vỡ “không gian thiêng” của nhiều lễ hội. Những mong ước thiết tha và thánh thiện, những ý nguyện thầm kín và thiêng liêng, sự tôn kính, biết ơn các bậc tiền nhân đã bị khai thác, biến tướng thành các trò mê tín, dị đoan.
Thực chất thì các công ty du lịch đưa ra không ít các sản phẩm du lịch, như: văn hóa, lễ hội, nghỉ dưỡng, biển, mạo hiểm,… để giới thiệu tới du khách nước ngoài nhưng hiếm có đơn vị lữ hành nào mạnh dạn xây dựng tour du lịch lễ hội chuyên đề để chào bán. Có chăng, chỉ khi nào khách đăng ký thì họ mới tổ chức tour khám phá, tìm hiểu các nét văn hóa truyền thống, phong tục tập quán thông qua một số lễ hội đặc trưng của vùng. Mặt khác, tại