MỞ ĐẦU
Bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển do Chính phủ Thụy Điển giúp đỡ xây dựng tại thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh được đưa vào sử dụng từ năm 1981. Sau hơn 30 năm hoạt động, bệnh viện đã đạt được những thành tích đáng tự hào trong sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Cùng với sự phát triển và những thành tựu đó là những vấn đề về môi trường đáng lo ngại từ các nguồn thải của bệnh viện trong đó có nước thải.
Với quy mô 750 giường bệnh và gần 786 cán bộ viên chức, lượng nước thải của bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển là rất lớn, khoảng 800 m3/ ngày. Loại nước thải này có thành phần và tính chất phức tạp, gây khó khăn cho quá trình xử lý. Nguồn phát sinh nước thải y tế rất đa dạng, từ các khâu: khám, chữa bệnh, pha chế thuốc, tẩy khuẩn, vệ sinh của người bệnh… Thành phần nước thải y tế rất phức tạp như: các chất hữu cơ, các chất dinh dưỡng, các kim loại, các chất phóng xạ, vi khuẩn, vi trùng gây bệnh… thậm chí nhiều thành phần hiện nay còn khó xác định
đối với các công cụ phân tích hiện đại.
Tuy nhiên biện pháp xử lý nước thải được áp dụng tại bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển hiện nay còn khá đơn giản, chỉ lắng, lọc qua 4 hồ sinh học rồi xả trực tiếp ra môi trường. Kết quả phân tích các mẫu nước thải bệnh viện sau khi qua hệ thống xử lý này không đảm bảo yêu cầu, gây tác động xấu đến nguồn nước mặt xung quanh và sinh hoạt của khu dân cư lân cận.
Vì vậy cần thiết phải có những nghiên cứu đầy đủ về các giải pháp quản lý nước thải tại bệnh viện Việt Nam – Thụy Điển nhằm giảm thiểu các tác động môi trường xấu do nước thải của bệnh viện gây ra. Với mong muốn đó, tác giả đã lựa chọn đề tài “Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất giải pháp quản lý nước thải bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển, Quảng Ninh.”
Đề tài được nghiên cứu theo mô hình DPSIR, trong đó tập trung sâu vào nghiên cứu hiện trạng xả nước thải của bệnh viện Việt Nam – Thụy Điển và các giải pháp đáp ứng phù hợp.
Kết cấu của luận văn bao gồm các phần:
- Mở đầu
- Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu
- Chương 2: Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
- Chương 3: Kết quả nghiên cứu
- Kết luận và kiến nghị
- Tài liệu tham khảo
- Phụ lục
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Cơ sở lý luận
Nước thải bệnh viện là một nguồn nước thải gây nguy hại nghiêm trọng cho môi trường, ảnh hưởng lớn đến sức khỏe con người.
Nguồn phát sinh nước thải bệnh viện có thể chia thành 3 nguồn chính sau:
- Nước thải từ các phòng khám và điều trị, từ các labo xét nghiệm (giải phẫu bệnh, huyết học, truyền máu, nhà đại thể...) đây là nguồn chất thải nguy hại;
- Nước thải có lẫn hóa chất từ các phòng dược như các loại thuốc, vacxin, huyết thanh quá hạn, các loại hóa chất như dung môi hữu cơ, hoá chất xét nghiệm, các hợp chất vô cơ...
- Nước thải sinh hoạt của cán bộ công nhân viên, người nhà bệnh nhân từ các khoa, phòng, nhà bếp, nhà ăn...
Đặc trưng ô nhiễm trong nước thải bệnh viện ngoài các yếu tố ô nhiễm thông thường như: chất hữu cơ, dầu mỡ động thực vật, vi khuẩn, còn có những chất khoáng và hữu cơ đặc thù như: các phế phẩm thuốc, các chất khử trùng, các dung môi hữu cơ, dư lượng thuốc kháng sinh, các đồng vị phóng xạ được sử dụng trong quá trình chuẩn đoán và điều trị bệnh. Nước thải bệnh viện có thể mang các mầm bệnh: tả, thương hàn, lỵ, lỵ amip, leptospyros, bệnh vàng da nhiễm trùng, viêm gan siêu vi trùng, giun sán, nấm mốc, bại liệt...
Kết quả khảo sát thực tế ở nhiều bệnh viện trong nhiều năm của PGS. TSKH Nguyễn Xuân Nguyên cho thấy thành phần ô nhiễm nước thải thường ở trong mức sau:
Bảng 1.1. Các thông số ô nhiễm trong nước thải bệnh viện
Chỉ tiêu | Đơn vị | Nồng độ thấp nhất | Nồng độ cao nhất | Nồng độ trung bình | |
1 | pH | - | 6,2 | 8,1 | 7,4 |
2 | Amoni | mg/l | 8 | 25 | 14 |
3 | BOD5 | mg/l | 110 | 250 | 150 |
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất giải pháp quản lý nước thải bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển, Quảng Ninh - 1
- So Sánh Các Công Nghệ Xử Lý Nươ ́ C Tha ̉ I Y Tế
- Nước Thải Bệnh Viện Và Hoạt Động Xử Lý Nước Thải Bệnh Viện Ở Quảng Ninh
- Động Lực Gây Ra Vấn Đề Ô Nhiễm Nước Thải Bệnh Viện Việt Nam – Thụy Điển
Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.
Chỉ tiêu | Đơn vị | Nồng độ thấp nhất | Nồng độ cao nhất | Nồng độ trung bình | |
4 | COD | mg/l | 140 | 300 | 200 |
5 | Chất rắn lơ lửng | mg/l | 100 | 220 | 160 |
6 | Coliform | MPN/100ml | 106 | 109 | 107 |
Nguồn: [3]
Theo Tổ chức Môi trường thế giới, nước thải bệnh viện ô nhiễm nhiều có hàm lượng chất rắn lơ lửng là 350 mg/l; tổng lượng các bon hữu cơ 290 mg/l; tổng phốtpho (tính theo P) là 15 mg/l và tổng nitơ 85 mg/l; coliform từ 108-109 MPN/100ml [14].
Nước thải bệnh viện gây tác động xấu đến môi trường và sức khỏe con người nếu không được xử lý. Các tác động chính của nước thải bệnh viện do vi khuẩn gây bệnh có khả năng lan rộng trong môi trường, mức độ nhiễm khuẩn cao, có khả năng tồn tại lâu và nhân lên trong điều kiện môi trường giàu chất hữu cơ của nước thải và nước bề mặt. Ngoài ra nước thải bệnh viện còn gây các tác động nguy hại đến sức khỏe con người và động thực vật thủy sinh bởi các yếu tố gây độc như: tồn dư hóa chất, phóng xạ, kim loại… Các yếu tố này có thể gây nhiễm độc cho con người và sinh vật nếu có tiếp xúc trực tiếp. Hậu quả có thể gây các bệnh về da liễu, mắt, hô hấp, thậm trí gây các bệnh ung thư nếu nước thải bệnh viện xâm nhập nguồn nước cấp sinh hoạt. Sự có mặt của các chất này ảnh hưởng bất lợi cho quá trình xử lý nước thải bằng phương pháp sinh học và cản trở các qúa trình sinh hoá khác diễn ra trong nước dẫn đến việc giảm hiệu quả làm sạch nước thải trên các công trình xử lý.
Việc xử lý nước thải y tế là rất cần thiết. Hoạt động xử lý nước thải y tế phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó thu gom cũng là một khâu rất quan trọng. Thu gom nước thải tốt sẽ tách được lượng nước thải không cần xử lý hay chỉ xử lý thông thường với lượng nước thải phải xử lý đặc biệt. Như vậy sẽ làm giảm chi phí cho xử lý nước thải, tăng độ bền của công trình do hệ thống không phải làm việc quá tải. Nguyên tắc chung thu gom nước thải bệnh viện là:
Tách lượng nước mưa chảy tràn vào hệ thống thu riêng, phù hợp cả về bố trí hệ thống máng, rãnh, cống và bể điều hoà.
Tách lượng nước sinh hoạt thông thường như nước nấu ăn và chế biến thực phẩm, nước thải khu hành chính, văn phòng ...
Thu gom triệt để lượng nước thải từ hoạt động chuyên môn khám bệnh, chuẩn đoán và điều trị. Nguồn thải này phải xử lý trước khi thải vào lưu vực.
Mục đích xử lý nước thải bệnh viện là khử các tạp chất và vi khuẩn gây bệnh để nước sau khi xử lý đảm bảo các quy chuẩn kỹ thuật hiện hành có thể xả vào nguồn tiếp nhận.
Do vậy, nước thải bệnh viện cần phải thu gom từ các khoa phòng về bể tập trung để xử lý, sau đó xả vào nơi quy định. Xử lý ở mức độ nào đó sẽ tuỳ thuộc vào điều kiện môi trường, đặc điểm thuỷ vực của nguồn tiếp nhận, phương pháp xử lý nước thải. Sau khi xử lý đạt yêu cầu, nước thải được phép đổ vào nguồn thải.
Các bước xử lý nước thải chính bao gồm: xử lý sơ bộ, xử lý cơ bản và xử lý bổ sung.
Xử lý sơ bộ thường loại được hầu hết tạp chất rác, sợi, vật nổi, tạp chất nặng và một phần tạp chất ở dạng lơ lửng.
Xử lý cơ bản chủ yếu là ứng dụng các quá trình sinh học. Công đoạn này phân huỷ sinh học hiếu khí các chất hữu cơ, chuyển các chất hữu cơ dễ phân huỷ thành các chất vô cơ và chuyển các chất hữu cơ ổn định thành bông cặn dễ loại bỏ ra khỏi nước.
Xử lý bổ sung là công đoạn khử khuẩn để đảm bảo nước trước khi được đổ vào các thuỷ vực không còn vi sinh vật gây bệnh. Ngoài ra, công đoạn này có thể phải tiếp tục nâng cao chất lượng nước đã xử lý để tái sử dụng hoặc để xả vào nguồn tiếp nhận có yêu cầu cao.
Hiện nay hoạt động xử lý nước thải y tế áp dụng công nghệ AAO được đánh giá là có nhiều ưu điểm vượt trội: hiệu qủa xử lý cao, chi phí vận hành thấp, ổn định và trình độ tự động hóa cao. Công nghệ AAO hiện đang là công nghệ tiên
tiến nhất của Nhật Bản trong xử lý nước thải bệnh viện. Công nghệ này hiện đang áp dụng nhiều trên thế giới.
1.2 Hiện trạng vấn đề nước thải bệnh viện và xử lý nước thải bệnh viện
1.2.1 Nước thải bệnh viện và hoạt động xử lý nước thải bệnh viện ở Việt Nam
Theo thống kê của Bộ Y tế, đến năm 2013 hệ thống cơ sở hạ tầng bệnh viện tuyến trung ương và tuyến tỉnh đều được nâng cấp, mở rộng để tăng thêm giường cho các bệnh viện. Do đó, tình trạng quá tải đã giảm đáng kể, 1.350 giường bệnh mới cho bệnh viện tuyến trung ương đã được bổ sung. Tỷ lệ giường bệnh thực kê tăng thêm so với năm 2012 trên toàn quốc đạt 6,2% (12.511 giường bệnh) trong đó các bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế tăng 7,3% (1.602 giường bệnh); bệnh viện tuyến tỉnh tăng 5,4% (5.620 giường bệnh); bệnh viện tuyến huyện tăng 7% (4.554 giường bệnh). Như vậy bình quân đạt 22,1 giường bệnh/10.000 dân. Bộ Y tế đã triển khai kế hoạch đầu tư xây dựng cơ sở 2 cho một số bệnh viện có mức độ quá tải cao với hình thức sử dụng vốn cổ phần hóa doanh nghiệp. Ngoài ra, các bệnh viện đã cải tạo, cơi nới, kê thêm giường để giải quyết tạm thời chỗ nằm cho bệnh nhân.
Cùng với sự gia tăng nhu cầu và nâng công suất hoạt động của các bệnh viện thì áp lực do vấn đề ô nhiễm của nước thải bệnh viện rất đáng báo động. Theo số liệu điều tra của Bộ Y tế, ở Việt Nam nước thải bệnh viện chưa được xử lý hiệu quả, tỉ lệ các bệnh viện có hệ thống xử lý nước thải thấp: các bệnh viện tuyến Trung ương: khoảng 74%, các bệnh viện tuyến tỉnh: 40% và các bệnh viện tuyến huyện: 27%. Các công nghệ xử lý nước thải được áp dụng đã cũ, xuống cấp, không còn đảm bảo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường như các công nghệ: lọc sinh học nhiều tầng, aeroten truyền thống, ao sinh học, lọc sinh học nhỏ giọt.... Một số cơ sở y tế có hệ thống xử lý nước thải nhưng không bảo trì thường xuyên nên không hoạt động. Một số bệnh viện có hệ thống xử lý nước thải hiện đại nhưng không vận hành vì chi phí lớn.
Theo Dự án đầu tư xây dựng hệ thống xử lý chất thải cho các cơ sở công lập, kết quả điều tra tại 7236 cơ sở Y tế của 47 tỉnh, thành phố cho thấy chỉ có 990 cơ sở có hệ thống xử lý nước thải (chiếm 14,3%), trong đó các cơ sở tuyến trung ương là 23, tuyến địa phương là 966. Con số này rất thấp so với yêu cầu về xử lý nước thải đối với các cơ sở Y tế. Trong số các hệ thống xử lý nước thải, có khoảng 497 hệ thống hoạt động có hiệu quả (chiếm 49,9%), số còn lại xử lý không đạt QCVN hoặc không hoạt động do hỏng và thiếu kinh phí hoạt động. Hoạt động xử lý nước thải cũng gặp nhiều khó khăn do thiếu nhân lực, phương tiện, kiến thức, kỹ năng...
Bảng 1.2. Lượng nước thải y tế phát sinh và được xử lý của các cơ sở y tế
Lượng nước thải phát sinh (m3/ngày) | Lượng nước thải được xử lý (m3/ngày) | |
A - Tuyến trung ương: tổng (42) | 13.337 | 7.951 |
Cơ sở khám chữa bệnh (34) | 10.973 | 7.875 |
Cơ sở đào tạo y, dược (8) | 2.364 | 77 |
B - Tuyến địa phương: tổng (47) | 112.663 | 61.444 |
Tổng A + B | 125.999 | 69.396 |
Nguồn [8]
Nghiên cứu của Tiến sĩ Ngô Kim Chi tại 205 bệnh viện đa khoa công lập và tư lập của 5 thành phố: Hà Nội (61 bệnh viện), Hải Phòng (17 bệnh viện), Huế (23 bệnh viện), Đà Nẵng (20 bệnh viện), TP. Hồ Chí Minh (51 bệnh viện) cho thấy:
Nước thải bệnh viện có các chỉ số đặc trưng như sau: BOD: 180 – 280 mg/l, COD: 250 – 500 mg/l, SS: 150 – 300 mg/l, H2S: 6 – 8 mg/l, T-N: 50 - 90 mg/l, T-
P: 3 -12 (mg/l), Coliform: 106 - 109 MNP/100ml.
Chi phí xử lý nước thải khoảng 2.500 đ/m3/ngày.
Có 12/90 hệ thống xử lý nước thải trong khu vực nghiên cứu của Tiến sĩ Ngô Kim Chi không hoạt động, trên 31,3% trong số đó không thể hoạt động do chức năng kém và khó sửa chữa, 41,67% hệ thống xử lý nước thải chưa đảm bảo yêu cầu của QCVN về nước thải bệnh viện, 40,7% số bệnh viện được khảo sát không có hệ thống xử lý nước thải.
Việc tập huấn nhân viên vận hành hệ thống xử lý nước thải bệnh viện rất quan trọng, duy trì nhật ký hoạt động của hệ thống xử lý nước thải, hiểu kết quả phân tích, lưu trữ kết quả phân tích, trình bày báo cáo, lưu các tài liệu cần thiết, cần chuẩn bị các tài liệu, dữ liệu đầy đủ thông tin và luôn sẵn sàng để cung cấp cho công chúng và cán bộ quản lý hoặc cơ quan hữu quan khi cần thiết. Nhưng trong thực tế, việc truy cập các thông tin về bảo vệ môi trường không phải là dễ dàng tại hầu hết các bệnh viện được khảo sát.
Một số công nghệ xử lý nước thải y tế phổ biến hiện nay ở Việt Nam gồm:
- Công nghệ xử lý chất thải lỏng y tế V 69
- Công nghệ xử lý chất thải lỏng y tế CN – 2000
- Công nghệ lọc sinh học nhỏ giọt Biofillter
- Công nghệ sử dụng đệm vi sinh lưu động và vật liệu lọc (AAO)
- Công nghệ AAO sử dụng màng siêu vi lọc (AAO + MBR)
Theo liên hiệp khoa học sản xuất công nghệ hóa học (UCE), những công nghệ này có những ưu nhược điểm sau: