DẪN LUẬN
1. Lý do – mục đích nghiên cứu :
Ở thành phố Hồ Chí Minh, dân số người Hoa là 414.045 người (chiếm 50,3% tổng số người Hoa tại Việt Nam), đứng thứ hai sau người Việt, gồm năm nhóm ngôn ngữ: Hẹ, Triều Châu, Hải Nam, Phúc Kiến và Quảng Đông, trong người Hoa Quảng Đông sống tập trung ở quận 5, quận 6 và quận 11 [7]. Do sống tập trung theo cộng đồng nên các yếu tố văn hóa truyền thống mang đặc trưng Quảng Đông còn rõ nét, là cơ sở để chúng ta tìm ra những nét tương đồng và dị biệt giữa văn hóa của người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh nói chung và người Hoa nhóm ngôn ngữ Quảng Đông nói riêng.
Mặc dù đã rời bỏ quê hương đến định cư ở vùng đất Sài Gòn – Gia Định, hơn ba thế kỷ, nhưng các cộng đồng người Hoa (theo nhóm ngôn ngữ) vẫn giữ được bản sắc văn hóa của mình. Điều gì đã làm cho người Hoa Quảng Đông còn giữ lại được những nét văn hóa đặc sắc khác với những nhóm Hoa khác. Điều này đã thôi thúc chúng tôi tìm hiểu nghi lễ chuyển đổi của họ - vì nghi lễ chuyển đổi gắn với từng thành viên trong cộng đồng, dù ở hoàn cảnh nào con người cũng không thể chối bỏ những nghi lễ ấy, nên nghi lễ chuyển đổi là điểm mấu chốt giúp chúng tôi hiểu được bản sắc văn hóa cộng đồng.
Từ miền Nam Trung Quốc di cư đến vùng đất Sài Gòn – Gia Định người Hoa đã cư trú tập trung theo nhóm phương ngữ nên văn hóa của người Hoa cũng mang dấu ấn cộng đồng ngôn ngữ - địa phương rõ rệt. Để hiểu văn hóa của người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh phải bắt đầu từ văn hóa của từng nhóm ngôn ngữ này và trong đó nghi lễ chuyển đổi là nghi lễ bảo lưu những yếu tố văn hóa truyền thống mang tính phương ngữ rõ rệt nhất.
Hơn nữa, nghiên cứu nghi lễ chuyển đổi không chỉ để hiểu rõ những nét văn hóa truyền thống mà còn thấy được những yếu tố văn hóa mới mà cộng đồng có được trong quá trình tiếp biến văn hóa với các tộc người khác ở Thành phố Hồ Chí
Minh. Từ đó chỉ ra được những biến đổi trong văn hóa truyền thống của cộng đồng người Hoa Quảng Đông trong đời sống đô thị hiện đại.
Arnold van Gennep đã định nghĩa “các nghi thức chuyển đổi” là “các nghi thức đi kèm bất kỳ một sự thay đổi nào về địa điểm, trạng thái, địa vị xã hội và tuổi tác” [48: 327]. Nghi lễ chuyển đổi đánh dấu sự chuyển đổi của cá nhân trong suốt vòng đời, hợp nhất những kinh nghiệm của con người và kinh nghiệm văn hóa với vận số sinh học: ra đời, trưởng thành, kết hôn, lên lão và chết đi. Mỗi một nghi lễ chuyển đổi, mỗi người chỉ trải qua một lần trong đời, nên nghi lễ này rất quan trọng và đáng nhớ, được tổ chức chu đáo, phản ánh sâu sắc bản chất văn hoá của từng tộc người.
Có thể bạn quan tâm!
- Nghi Lễ Chuyển Đổi Của Người Hoa Quảng Đông Ở Thành Phố Hồ Chí Minh Hiện Nay - 1
- Những Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Nghi Lễ Chuyển Đổi Và Sự Biến Đổi Trong Nghi Lễ Chuyển Đổi.
- Nghi Lễ Chuyển Đổi Của Người Hoa Quảng Đông Ở Thành Phố Hồ Chí Minh Hiện Nay - 4
- Nghi Lễ Chuyển Đổi Của Người Hoa Quảng Đông Ở Thành Phố Hồ Chí Minh Hiện Nay - 5
Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.
Mặt khác “nghi lễ không phải là một hình thức đặc biệt của sự kiện nhưng là lĩnh vực có ý nghĩa nhất của tất cả các hoạt động của con người. Nghi lễ chuyển tải thông điệp về tình trạng văn hóa, xã hội của những cá nhân, bất cứ hành động nào của con người đều có khuôn khổ mang tính nghi lễ. Nghi lễ cung cấp cho nhà nhân học nguồn thông tin dồi dào nhất về văn hóa. Trong rất nhiều trường hợp, nghi lễ giải thích và kịch tính hóa thần thoại của một nền văn hóa. Nghi lễ chứa đựng dồi dào thông tin mang tính biểu tượng về thế giới văn hóa và xã hội của những người tham dự” [91: 410]. Những giá trị của con người, của nhóm cũng được bộc lộ qua nghi lễ và hình thức nghi lễ mang tính quy ước và bắt buộc. Nghiên cứu nghi lễ là một cách để hiểu kết cấu thiết yếu của xã hội loài người.
Như Victor Turner đã chứng minh việc phân tích biểu tượng và hành vi nghi lễ được sử dụng như chìa khóa để hiểu cấu trúc và tiến trình xã hội. Hiểu được “giai đoạn ngưỡng” của nghi lễ chuyển đổi có thể hiểu được phạm vi bao quát những hiện tượng xã hội [96:2] và “những nghi lễ này có liên quan đến lịch sử và cấu trúc của một xã hội nhất định” [100: 5]. Do đó, nghiên cứu nghi lễ chuyển đổi là nghiên cứu một thành tố quan trọng của văn hóa tộc người và qua đó khái quát hệ thống giá trị đạo đức, cấu trúc xã hội của cộng đồng người Hoa Quảng Đông ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Với xu hướng hiện đại hóa và toàn cầu hóa, mọi dân tộc trên thế giới nói chung và người Hoa Quảng Đông nói riêng đang có khuynh hướng từ bỏ hay đơn giản hóa những lễ nghi cổ truyền để tổ chức theo nghi thức hiện đại mang tính phổ quát, làm mai một đi những yếu tố văn hóa mang tính tộc người. Phân tích chức năng nghi lễ chuyển đổi của người Hoa Quảng Đông để có được những cơ sở khoa học chứng minh sự cần thiết của việc bảo tồn và phát huy những nghi lễ chuyển đổi này đối với việc ổn định trật tự xã hội, duy trì sự cố kết cộng đồng, gìn giữ bản sắc văn hóa tộc người.
Mục tiêu của đề tài này nhằm:
- Nhận diện những nghi lễ nào của người Hoa Quảng Đông là nghi lễ chuyển đổi, những biểu hiện của giai đoạn trước ngưỡng, trong ngưỡng và sau ngưỡng ở mỗi nghi lễ. Các yếu tố (giới, tuổi, điều kiện kinh tế, mạng lưới xã hội và niềm tin tôn giáo, giao lưu và tiếp xúc văn hóa) ảnh hưởng đến hình thức và nội dung của nghi lễ. Khái quát giá trị đạo đức và cấu trúc xã hội của cộng đồng được thể hiện qua nghi lễ chuyển đổi.
- Chỉ ra những nguyên nhân và sự biến đổi của những nghi lễ chuyển đổi hiện nay so với những nghi lễ diễn ra trong những năm nửa đầu thế kỷ XX.
- Làm rõ chức năng của nghi lễ chuyển đổi đối với cá nhân và cộng đồng người Hoa Quảng Đông ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay: chức năng tâm lý, chức năng xã hội và chức năng văn hóa-giáo dục.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: đối tượng nghiên cứu chính của luận án là những nghi lễ chuyển đổi của người Hoa nhóm ngôn ngữ Quảng Đông, đặt trong bối cảnh kinh tế, văn hóa và xã hội thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Thông qua nghi lễ tìm hiểu chiến lược ứng xử của cá nhân, gia đình, cộng đồng trong mối tương quan với giá trị đạo đức, và cấu trúc xã hội của cộng đồng.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu những nghi lễ chuyển đổi được tổ chức tại nhà, tại các nơi tổ chức của cộng đồng (nhà hàng, nhà tang lễ) ở quận 5,
quận 6 và quận 11, nơi có người Hoa Quảng Đông sống tương đối tập trung, và là địa bàn cư trú lâu đời của cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
- Ý nghĩa khoa học:
Nghi lễ vòng đời không phải là đề tài mới của dân tộc học Việt Nam, nhưng nghiên cứu nghi lễ vòng đời theo lý thuyết Nghi lễ chuyển đổi của Anorld van Gennep là hướng tiếp cận chưa được nhiều người quan tâm mặc dù đây là lý thuyết đã ra đời ở châu Âu từ đầu thế kỷ XX. Kết quả nghiên cứu luận án góp phần giới thiệu một khung lý thuyết nghiên cứu về nghi lễ vòng đời – với khái niệm nghi lễ chuyển đổi – nhấn mạnh những bước ngoặt quan trọng ở mỗi giai đoạn của một đời người. Với lý thuyết nghi lễ chuyển đổi của Arnold van Gennep luận án nhận diện những nghi lễ chuyển đổi của người Hoa, chỉ ra ba giai đoạn phân ly, chuyển tiếp và hội nhập của các nghi lễ.
Victor Turner đã cống hiến cho ngành nhân học thế giới một công trình rất có giá trị - The forest of Symbols (Rừng biểu tượng). Vận dụng phương pháp nghiên cứu biểu tượng của Victor Turner, tác giả luận án giải mã những biểu tượng trong nghi lễ chuyển đổi qua đó khái quát giá trị đạo đức và cấu trúc xã hội của cộng đồng người Quảng Đông hiện nay.
Nghiên cứu nghi lễ chuyển đổi của người Hoa Quảng Đông theo hướng tiếp cận chức năng của Radcliffe – Brown và Bronislaw Malinowski góp phần làm sáng tỏ một trường phái lý thuyết nhân học ra đời từ đầu thế kỷ XX vào nghiên cứu trường hợp ở Việt Nam.
Nội dung luận án là sự vận dụng thuyết cấu trúc qua nghi lễ chuyển đổi của Arnold van Gennep, thuyết chức năng của Radcliffe - Brown, Bronislaw Malinowski, biểu tượng trong nghi lễ của Victor Turner vào nghiên cứu những nghi lễ chuyển đổi của một cộng đồng tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay – người Hoa Quảng Đông.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Từ việc phân tích và lý giải các chức năng của nghi lễ chuyển đổi khẳng định vai trò và lý do cần duy trì những nghi lễ ấy cho dù cuộc sống có thay đổi theo chiều hướng ngày càng hiện đại.
Công trình còn chỉ ra phương cách người Hoa Quảng Đông giữ gìn, bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống cũng như tiếp thu những yếu tố văn hóa mới do hoàn cảnh sống thay đổi.
4. Những câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
Xuất phát từ mục tiêu trên, cuộc nghiên cứu này cần trả lởi những câu hỏi nghiên cứu chính yếu như sau:
- Những nghi lễ chuyển đổi của người Hoa Quảng Đông bao gồm những nghi lễ nào – trình tự và ý nghĩa của sự chuyển đổi, các giai đoạn chuyển đổi được thể hiện như thế nào? Giá trị đạo đức và cấu trúc xã hội người Hoa được thể hiện qua nghi lễ là gì?
- Tại sao có sự khác nhau trong việc thực hành nghi lễ chuyển đổi giữa các cá nhân trong cộng đồng? Những nguyên nhân nào dẫn đến những biến đổi trong nghi lễ chuyển đổi và những biến đổi đó là gì?
- Chức năng của nghi lễ chuyển đổi là gì – xét dưới góc độ cá nhân và cộng đồng?
Từ những câu hỏi nghiên cứu trên, chúng tôi có thể đưa ra những giả thuyết nghiên cứu chính:
1. Nghi lễ chuyển đổi của người Hoa Quảng Đông ở Thành phố Hồ Chí là những nghi lễ gắn liền với sự thay đổi từng giai đoạn của một đời người. Sau mỗi nghi lễ vai trò, vị thế của cá nhân thay đổi. Giải mã ý nghĩa các biểu tượng trong nghi lễ có thể biết được giá trị đạo đức và cấu trúc xã hội của cộng đồng.
2. Trong những nghi lễ chuyển đổi của người Hoa Quảng Đông hiện nay ngoài những yếu tố văn hóa truyền thống mang tính tộc người còn có những yếu tố văn hóa mới mang dấu ấn văn hóa đô thị thời hiện đại. Các yếu tố giới, tuổi, mạng lưới xã hội, điều kiện kinh tế, niềm tin tôn giáo có ảnh hưởng đến hình thức và nội dung của nghi lễ chuyển đổi.
3. Những nghi lễ chuyển đổi giúp giảm thiểu các tác động có hại của những thay đổi về trạng thái, tình trạng xã hội của mỗi cá nhân, có chức năng gìn giữ truyền thống văn hóa, tăng cường cố kết gia đình, cộng đồng, hình thành những chuẩn tắc đạo đức trong cộng đồng.
5. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu: Luận án áp dụng cách tiếp cận nghiên cứu trường hợp bao gồm nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng.
trung.
Nghiên cứu định tính: quan sát – tham dự, phỏng vấn sâu và phỏng vấn tập
Phương pháp quan sát-tham dự là cách “thu thập dữ kiện bằng cách sống
gần gũi trong một thời gian dài với thành viên của một xã hội khác” [16:56]. Địa bàn nghiên cứu cũng chính là nơi tác giả sinh sống nên tác giả thuận lợi trong việc quan sát-tham dự các nghi lễ của các thành viên trong cộng đồng người Hoa Quảng Đông. Quan sát – tham dự 15 nghi lễ chuyển đổi (lễ đầy tháng: 2, lễ khai học: 1, lễ cưới: 5, lễ mừng thọ: 2, lễ tang: 5) chúng tôi có được thông tin về trình tự nghi lễ, thái độ, hành vi của những người thụ lễ và những người liên quan. Dữ liệu thu thập được từ quan sát-tham dự làm sáng tỏ hơn những thông tin có được từ phỏng vấn sâu. Tuy nhiên, chỉ quan sát-tham dự không thể hiểu rõ ý nghĩa của những biểu tượng, ý nghĩa và lý do tồn tại của những nghi thức. Mặt khác, có những nghi lễ người dân không muốn có sự hiện diện của nhà nghiên cứu – lễ tang – thời điểm tang gia bối rối, có thể có những sơ xuất trong thái độ, hành vi ứng xử, sự có mặt của người ngoài làm cho họ cảm thấy không thoải mái. Điểm bất lợi của phương pháp nghiên cứu này là việc tham dự nghi lễ của nhà nghiên cứu hoàn toàn phụ thuộc vào thời gian người dân tổ chức các nghi lễ, nên có những trường hợp nhà nghiên cứu không thể tham dự được.
Phỏng vấn sâu (20 cuộc) những người hiểu biết về phong tục tập quán giúp chúng tôi có bức tranh toàn diện hơn về các nghi lễ: xác định những nghi lễ nào của một đời người được người dân xem là nghi lễ chuyển đổi. Những người thông tin cung cấp thông tin về trình tự các nghi thức, lý do và ý nghĩa của các nghi thức, các
biểu tượng trong nghi lễ. Thông tin thu được từ phỏng vấn hồi cố giúp chúng tôi có dữ liệu để so sánh sự giống và khác nhau giữa những nghi lễ chuyển đổi trước đây và hiện nay. Đối với từng nghi lễ chúng tôi có chiến lược phỏng vấn những người cung cấp thông tin khác nhau nhằm thu được nhiều thông tin nhất. Riêng lễ tang, chúng tôi thực hiện 5 cuộc phỏng vấn những chuyên gia thực hành tôn giáo (Linh mục, Hòa thượng, Đạo sĩ, Thầy tụng, những người làm dịch vụ mai táng) để thu thập thông tin về lễ tang. Phỏng vấn những người lớn tuổi, bà mai, những người chuyên tổ chức lễ cưới tại nhà hàng (6 cuộc) để có được thông tin về lễ đầy tháng, lễ cưới và lễ mừng thọ. Riêng đối với lễ khai học chúng tôi tiến hành 3 cuộc phỏng người lớn tuổi vốn có học chữ Hán, am hiểu về văn hóa cộng đồng.
Mặt khác chúng tôi cũng tiến hành thảo luận nhóm tập trung (2 cuộc) những người làm công tác quản lý cộng đồng – Ban Công tác người Hoa Thành phố Hồ Chí Minh – Những người chuyên nghiên cứu văn hóa Hoa giúp chúng tôi kiểm định lại những thông tin thu thập được từ cộng đồng qua quan sát tham gia, phỏng vấn sâu (những người thông tin), để đảm bảo tính chính xác của thông tin.
Nghiên cứu định lượng để đo lường ý kiến của từng cá nhân về những thông tin có được từ nghiên cứu định tính: như tên gọi các nghi lễ chuyển đổi ở mỗi giai đoạn của một đời người, ý nghĩa của nghi lễ, cảm xúc của cá nhân đối với từng nghi lễ, những kiêng kỵ trong nghi lễ, những nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi về hình thức và nội dung của nghi lễ.
Tiêu chí chọn mẫu: Mẫu nghiên cứu là cá nhân, am hiểu về các nghi lễ, mang tính đại diện về giới, tuổi, điều kiện kinh tế, tôn giáo.
Đây là điều tra mẫu với 120 đơn vị mẫu cá nhân, kết hợp phương pháp chọn mẫu khu vực điển hình, chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống.
+ Quy trình chọn mẫu:
- Dựa theo số liệu người Hoa trên toàn thành phố của Cục thống kê cùng với sự tham mưu của Ban công tác người Hoa thành phố Hồ Chí Minh, chọn ba điểm người Hoa Quảng Đông sống tập trung và có tính đại diện của các nhóm xã hội: nghèo, trung bình, khá và giàu thuộc địa bàn các quận: 5, 6, 11.
- Theo báo cáo tình hình cư trú của cư dân tại ba quận (5, 6, 11), mỗi quận sẽ chọn ba phường có số lượng hộ người Hoa Quảng Đông cao nhất: quận 5 (phường 6, phường 11 và phường 14); quận 6 (phường 5, phường 6, phường 10 ), quận 11 (phường 9, 11, 14). (Số lượng này do Ủy ban phường cung cấp)
- Bằng cách tập hợp danh sách hộ người Hoa Quảng Đông do người phụ trách về người Hoa ở từng khu phố cung cấp (tuy nhiên cũng có những trường hợp nhầm, họ là người Hoa nhưng không phải là người Hoa Quảng Đông, khi phỏng vấn tác giả phát hiện, sẽ phải đổi mẫu: có 7 trường hợp nhầm người Hoa Triều Châu, Phúc Kiến. Tuy nhiên, tác giả vẫn phỏng vấn những trường hợp để có thông tin so sánh với người Hoa Quảng Đông), mỗi phường chọn một khu phố có đông hộ người Hoa Quảng Đông nhất, lập danh sách toàn bộ những hộ ở chín khu phố này (do người phụ trách về người Hoa khu phố cung cấp danh sách tên các hộ gia đình người Hoa Quảng Đông), chọn theo phương pháp ngẫu nhiên hệ thống với bước nhảy k = (Bước nhảy k= tổng số hộ Hoa Quảng Đông/120), trên cơ sở đó chúng tôi lập được danh sách cá nhân cần phỏng vấn.
- Với 120 đơn vị mẫu được chọn theo phương pháp ngẫu nhiên hệ thống, mẫu nghiên cứu sẽ đa dạng và mang tính đại diện về yếu tố giới, tuổi, nguyên quán, tôn giáo, mạng lưới xã hội, địa vị kinh tế. Qua đó công trình có thể phác họa nên bức tranh nhiều màu sắc về nghi lễ chuyển đổi của cộng đồng. Đây là điều lý tưởng, nhưng trên thực tế danh sách do cán bộ công tác người Hoa ở khu phố cung cấp không mang tính đại diện (điều này thể hiện qua đặc điểm mẫu nghiên cứu được thể hiện bên dưới).
Về đặc điểm mẫu nghiên cứu (định lượng).
Mẫu nghiên cứu của đề tài là 120 cá nhân ở quận 5, quận 6 và quận 11. Đối tượng phỏng vấn là những người am hiểu về phong tục tập quán trong gia đình, trong đó có 70% là nữ và 30% nam. Về độ tuổi những người phỏng vấn: 31-40 (8,6%), 41-50 (10,3%), 51-60 (24,1%) và 60 tuổi trở lên (56,9%). Người Hoa
Quảng Đông ở thành phố Hồ Chí Minh trong cuộc nghiên cứu này đến từ tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) nhưng ở rất nhiều huyện khác nhau như Cao Yếu, Cửu