Nghệ thuật truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa - 2


đại”. Phạm Duy Nghĩa đang góp sức làm nên một nền văn xuôi trẻ khoẻ khoắn và đa sắc.

Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy, việc nghiên cứu nghệ thuật truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa, bên cạnh những lời nói đầu trong các tập truyện ngắn, chủ yếu mới dừng lại ở cấp độ các bài viết, bài phỏng vấn in trên các báo, tạp chí và internet, hoặc được nghiên cứu một phần trong các luận văn thạc sĩ, khóa luận tốt nghiệp đại học, các đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên...Thậm chí, dù được coi là một trong nhưng cây viết trẻ người kinh tiêu biểu viết về miền núi hiện nay, nhưng trong luận án tiến sĩ “Văn xuôi Việt Nam hiện đại về dân tộc và miền núi” của mình, nhà văn hầu như không đề cập đến tác phẩm của mình ngoài vài dòng mang tính giới thiệu, điểm qua. Chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện về nghệ thuật Phạm Duy Nghĩa. Những ý kiến đánh giá, nhận xét của các nhà nghiên cứu, phê bình, các bạn học viên, sinh viên đi trước là những gợi ý thiết thực giúp chúng tôi triển khai công trình nhỏ mang tên Nghệ thuật truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa.

3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU


Nhằm tìm hiểu, khám phá những nét đặc sắc trong nghệ thuật truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa, luận văn đi sâu nghiên cứu các sáng tác của tác giả:

1. Tập truyện ngắn Tiếng gọi lưng chừng dốc, Nxb Văn học, H, 2002


2. Tập truyện ngắn Cơn mưa hoa mận trắng,NxbThanh niên, H, 2007.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

3. Tập Phạm Duy Nghĩa - 12 truyện ngắn, Nxb Lao động, H, 2010.


Nghệ thuật truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa - 2

4. Tập Truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa, Nxb Văn học, H, 2010.


Để có cái nhìn phong phú và toàn diện, luận văn cũng tham khảo sáng tác của một số tác giả trẻ cùng thế hệ với Phạm Duy Nghĩa ( như Đỗ Bích Thúy, Đỗ Tiến Thụy, Nguyễn Ngọc Tư,…) và sáng tác, nghiên cứu của một


số tên tuổi lớn ( như Tô Hoài, Nguyên Ngọc, Vi Hồng, Ma Văn Kháng, Cao Duy Sơn, Nguyễn Huy Thiệp…)

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


4.1. Phương pháp khảo sát, thống kê.


4.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp.


4.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu


5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN


5.1. Về mặt lí luận


Góp phần khám phá, phát hiện những sáng tạo mới mẻ, độc đáo trong việc tiếp cận hiện thực, con người đương đại (nhất là ở miền núi) và một số phương diện nghệ thuật truyện ngắn đặc sắc, nổi bật của nhà văn trẻ Phạm Duy Nghĩa.

5.2. Về mặt thực tiễn


- Góp thêm một tư liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến sáng tác của Phạm Duy Nghĩa.

- Tìm ra những nét chung và dấu ấn riêng cũng như sự đóng góp của nhà văn đối với sự phát triển của văn xuôi Việt Nam đương đại.

6. CẤU TRÚC LUẬN VĂN


Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Cốt truyện truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa. Chương 2: Nhân vật trong truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa.

Chương 3: Ngôn ngữ nghệ thuật truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa.


PHẦN NỘI DUNG


CHƯƠNG 1


CỐT TRUYỆN TRUYỆN NGẮN PHẠM DUY NGHĨA


1.1. KHÁI NIỆM CỐT TRUYỆN


Cốt truyện (plot) là "Hệ thống sự kiện cụ thể, được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định tạo thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động của các tác phẩm tự sự" [11]. Cần phân biệt hai khái niệm truyện (story) và cốt truyện (plot). "Truyện là chuỗi những sự kiện về một vấn đề (hoặc nhiều vấn đề) nào đó diễn ra theo trật tự tự nhiên, tuân thủ thời gian tuyến tính, nương theo sự chảy trôi của cuộc sống theo quan hệ nhân quả mà không có sự đảo lộn sắp đặt của người kể. Cốt truyện là sự sắp xếp thẩm mĩ, không tuân theo trật tự biên niên của sự kiện và quan hệ nhân quả nghiêm nhặt, thống nhất theo ý đồ chủ quan của người kể về những sự kiện của một câu chuyện nào đó, nhằm mục đích nêu bật được tư tưởng chủ đề và tạo sức hấp dẫn tối đa tới người đọc".[4]

Truyện ngắn là một thể loại năng động, cốt truyện luôn tồn tại những dấu hiệu không ổn định, biểu hiện vô cùng đa dạng và phong phú. Những năm gần đây, đặc trưng thể loại văn học không còn là sự trói buộc chặt chẽ đối với các nhà văn, truyện ngắn ngày càng được viết một cách linh hoạt không bị gò ép thi pháp truyền thống.

Đối với tác phẩm tự sự truyền thống, cốt truyện đóng vai trò quan trọng góp phần quyết định thành công của tác phẩm. Thông qua cốt truyện, người đọc có thể dùng tóm lược lại nội dung câu chuyện mà nhà văn đã kể. Hiện


thực vận động trong tác phẩm theo chiều tuyến tính, giúp người đọc định hướng rò ràng khi tiếp nhận.

Trong truyện ngắn đương đại, cốt truyện đang có xu hướng trở nên mờ nhạt. Nhiều truyện ngắn biểu hiện sự co giãn cốt truyện. Nhiều truyện ngắn được lắp ghép bởi các mảng trần thuật khác nhau, biểu hiện của sự phân rã cốt truyện những năm đầu thế kỉ 21.

Có thể nói rằng, truyện ngắn là "nơi phô diễn những cách tân về cốt truyện một cách hiệu quả nhất" và độc giả hôm nay đang chứng kiến sự đổi thay của cốt truyện ngắn đương đại. Ngoài việc kế thừa phát huy cốt truyện truyền thống, truyện ngắn hôm nay còn thừa nhận sự xuất hiện và thay thế của cốt truyện mới. Có thể kể đến các kiểu cốt truyện như : cốt truyện ghép mảnh, cốt truyện khung (truyện lồng truyện), cốt truyện huyễn ảo, cốt truyện dòng ý thức, cốt truyện siêu văn bản, ....

Văn xuôi miền núi là một bộ phận văn chương có mối ràng buộc rất chặt với truyền thống (bởi cả những nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan) Viết chủ yếu về miền núi, vì thế mà cốt truyện truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa cũng không thể bỏ quá xa những kết cấu truyền thống. Đó là cốt truyện liền mạch, tôn trọng trật tự tuyến tính, duy trì quan hệ nhân quả.

Văn học là cuộc vận động không ngừng, nhà văn muốn tồn tại cũng phải không ngừng sáng tạo, Phạm Duy Nghĩa bên cạnh những cốt truyện truyền thống, đã có ý thức làm mới mình bằng một số cốt truyện mang yếu tố cách tân. Đó là các kiểu cốt truyện huyền ảo, cốt truyện khung (truyện lồng truyện), cốt truyện ghép mảnh, cốt truyện tâm lí.


1.2. CÁC KIỂU CỐT TRUYỆN TRUYỆN NGẮN PHẠM DUY NGHĨA


1.2.1. Cốt truyện liền mạch, tuyến tính


Đọc truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa cảm nhận đầu tiên của người đọc đó là chất "cổ điển" và "truyền thống". Ở đó ta bắt gặp cái âm hưởng của truyện Nguyễn Tuân, Nam Cao, Tô Hoài, Ma Văn Kháng,.... Nghĩa là rất quen thuộc, có phần "già dặn" so với phần lớn những cây viết trẻ đương thời. Điều này thể hiện ngay trong cách tổ chức cốt truyện.

Cốt truyện Phạm Duy Nghĩa phần lớn là cốt truyện liền mạch, tuyến tính. Ở đó thời gian cốt truyện trùng với thời gian trần thuật, các sự kiện được triển khai liên tục theo mạch thời gian từ trước đến sau, quan hệ nhân quả được duy trì, kịch tính được chú trọng. Đây là kiểu cốt truyện truyền thống, ra đời từ thời cổ đại còn tồn tại đến ngày nay, dễ đọc, dễ nắm bắt.

Kiểu trần thuật phổ biến trong truyện ngắn được viết theo lối truyền thống là truyện thường mở đầu bằng cách giới thiệu về một địa điểm, địa danh nào đó, nói chính xác thì đó chính là bối cảnh không gian của truyện. Tức là, bao giờ cũng bắt đầu từ xuất xứ. Đây là mở đầu của Trên đồi lập lòe ánh lửa: "Làng Muồi cách thị trấn Mường Dồ một dãy núi đá vôi. Tên Làng Muồi là tên chung, còn làng Muồi là ngôi làng ở ngay đầu xã. Dân trong làng sống bằng ruộng, nương, bằng việc chọc bới, săn lùng ba ba, tắc kè, rắn rết. Trừ ít vụ xô xát, chửi càn, nói tục, nhìn chung quanh năm tĩnh lặng, thanh bình. Riêng nhà Thắm ở lưng chừng đồi". Để rồi, từ ngôi nhà ở lưng chừng đồi giữa cái làng quê "thanh bình, tĩnh lặng" ấy sẽ xảy ra bao chuyện không hề tĩnh lặng cũng chẳng bình thường. Cơn mưa hoa mận trắng từ những dòng đầu tiên, đã mở ra trước mắt người đọc một không gian như thế này: "Từ ngày lên Kin Chu Phìn, Thuận luôn có cảm giác sống trong một thế giới bưng bít, biệt lập. Căn nhà lợp tranh bé nhỏ của chị nép mình cạnh rừng vầu. Gian


ngủ liền với vách lớp học. Những đêm xuân, Thuận nằm nghe tiếng dúi gặm măng sồn sột sau nhà. Quanh năm, sương mù vón lại trên đỉnh núi Rú. Ngọn xám ngắt tỏa khí lạnh buốt, nhô ra bức thành đá sứt sẹo, lởm chởm, phủ cây dại bùng nhùng. Lâu lâu, từ núi vọng về một âm thanh đục ngầu của đá lở. Gió rít ùng ục trong rừng vầu đắng, rừng nứa ngộ, nghe như nghẽn lại trong tầng lá rậm rì. Những buổi chiều vào rừng nhặt củi, Thuận thấy loi nhoi trong sương một đôi bóng áo chàm". Không gian hoang vắng nơi tận cùng heo hút ấy càng khắc sâu nỗi cô đơn cùng cực của con người, góp phần lí giải phần nào nỗi "thèm người" rất thật của cô giáo Thuận, cũng tạo điều kiện cho những khát khao dục vọng thầm kín của con người có cơ hội bùng lên mãnh liệt.

Hoặc, mở đầu bằng bối cảnh xảy ra câu chuyện. Đó là một cuộc gặp gỡ tình cờ trên một chuyến tàu (Cô gái xuống ga Vĩnh Yên): "Tôi ra ga vào một buổi sáng mùa đông giá lạnh. Khoang tàu nghẽn đặc người. Chen qua đám hành khách ồn ào, hỗn độn, tôi vừa tìm được số ghế bên cửa sổ thì tàu chuyển bánh..... Ngồi cạnh tôi là một cô gái chạc mười chín, hai mươi", để sau đó là một câu chuyện như trò đùa của số phận; hay có lúc mở đầu tác phẩm lại là sự lí giải về nguồn gốc câu chuyện: "Trong quãng đời làm nghề nghiên cứu văn hóa dân gian, tôi đã từng lên những vùng xa xôi bên dãy Hoàng Liên hiểm trở. Trong một chuyến đi tôi gặp lại Tần, một người tôi quen trong lần tham gia đoàn làm phim tại lễ hội trùm chăn của người Hà Nhì. Hôm đó xong việc thì đã muộn. Tôi đứng ở ngã ba đường, chờ mãi không thấy chiếc xe khách nào chạy về thị xã. Thấy tôi tần ngần, Tần rủ tôi về chơi nhà anh ta ở Ô Cán Hồ, cách ngã ba hơn mười cây số. Máu giang hồ nghệ sĩ nổi lên, tôi vui vẻ bằng lòng." (Chuyện ở Ô Cán Hồ).

Trước khi tham gia vào các sự kiện, tình huống truyện, nhân vật thường được giới thiệu khái quát về lai lịch, diện mạo, tính tình. Ở Thông trên đá,


trước khi kể về câu chuyện tình éo le của Ngân, bên cạnh nhân vật "tôi" được giới thiệu một cách sơ lược: "Hồi ấy tôi dạy học tại một trường sư phạm đào tạo giáo viên tiểu học ở miền núi. Là một thầy giáo trẻ, đẹp trai lồng lộng lại giảng bài hay", là lời giới thiệu khá kĩ về nhân vật chính: "Trong một lớp tôi chủ nhiệm đồng thời dạy môn văn, có Ngân là nữ học trò tôi chú ý nhất. Ngân không xinh theo kiểu rực rỡ, nở bung mà lắng sâu đằm dịu. Tóc Ngân dài chấm gót và dáng đi mềm mại như một con mèo. Ngân lại nết na, lễ phép, giản dị, cần cù. Tóm lại, ở Ngân hội tụ đủ tính tốt trên đời, lại phảng phất hương vị đồng quê...Qua vài lần tiếp xúc với Ngân, hình bóng một người vợ đảm đang, một nàng dâu hiền thảo cứ ló rạng trong tôi ngày một rò nét dần". Sau đó mới là mối tình chớm nở của họ, là sự tan vỡ của mối tình ấy và cuộc đời éo le, vất vả của Ngân,.... Trước khi gặp Thắm (Lưng đồi lập lòe ánh lửa) một cách "chính thức", tác giả để cho người đọc được tiếp xúc với nàng qua " mịt mù bao khói sương huyền thoại" của những lời đồn đại và thêu dệt. Rằng "nàng như người trong cổ tích", "từng đoạt giải nhất sinh viên thanh lịch ở trường đại học", rồi "nàng không phải hạng tầm thường" "đã gặp Thắm một lần là không hể nào quên", rằng "nàng nhân đạo lắm", "nàng giản dị, truyền thống", "nàng sạch như sương, trong như nước cất",.. để rồi nàng trở thành một "thương hiệu", một "huyền thoại" khiến người ta tò mò, háo hức khám phá về nàng, về câu chuyện đời nàng.

Cốt truyện truyền thống luôn tuân theo trật tự thời gian, vì thế truỵên thường bắt đầu bằng một thời điểm trong quá khứ với cái nhìn hồi cố của người kể truyện rồi kể ngược trở lại về phía hiện tại theo dòng tuyến tính. Không khó để gặp trong truyện ngắn Phạm Duy Nghĩa những kết cấu như thế. Chẳng hạn truyện Lá Vàng Chải: “Dạo ấy, đôi công nhân chúng tôi xây đập tràn ở Lá Vàng Chải”, truyện Ngôi nhà nhỏ ven hồ: " Mùa thu năm ấy họa sĩ Viễn rời thành phố về sống tại ngôi nhà cũ kĩ ở vùng hồ". Rồi, cứ thế, các sự


kiện cứ tuần tự, chuyện xảy ra trước, kể trước, chuyện xảy ra sau, kể sau, dần dần cho đến khi kết thúc. Lối kể chuyện trùng khít thời gian cốt truyện và thời gian trần thuật ấy làm cho câu chuyện trở nên dễ hiểu, dễ nắm bắt, phù hợp với khả năng tiếp nhận của số đông người đọc ở miền núi.

Tuy nhiên, ở một số truyện các thành phần cốt truyện không được trình bày tuần tự theo một trật tự liền mạch của chuỗi sự kiện cũng như theo trật tự tổ chức cốt truyện truyền thống. Đó là những tác phẩm được mở đầu bằng hiện tại rồi ngược về quá khứ, bắt đầu khi sự kiện đã xẩy ra rồi đi tìm nguyên nhân nguồn cội. Vệt sáng trên ban công mở ra bằng những suy nghĩ day dứt, hối hận của nhân vật tôi: "Tôi không bao giờ gặp lại con bé nữa. Mỗi lần nhớ đến nó, cái vẻ hồn nhiên tươi tắn như được chắt ra từ những cánh bằng lăng tím muốt lại tràn ngập tâm hồn tôi, đọng mãi trong tôi một nỗi buồn dai dẳng. Nó không còn bé bỏng, tôi biết thế, nhưng trong kí ức của tôi nó luôn là một cô bé, mãi mãi không bao giờ lớn thêm", rồi nhớ lại quá khứ đã qua:"Tôi gặp con bé vào một buổi tối cuối mùa xuân. Hôm ấy...". Còn ở Lá bạch đàn thì hiện tại lại hiện ra rất đột ngột, táo bạo:

" Chiếc áo phông rớt xuống.


Rồi đến đôi tất trắng. Mỏng, nhẹ như sương.


Ngón tay anh chạm vào chiếc cúc quần bò của Liên. Chiếc cúc bằng đồng, lành lạnh, như con mắt gườm gườm.

Anh dừng lại, nhìn qua ô cửa căn phòng khách bé nhỏ, một giường".


Theo ánh nhìn đó, thời gian trở về buổi chiều hôm ấy khi Minh tình cờ gặp lại Liên, rồi lại trở lại câu chuyện dở dang của hai người và lại chiếu về quá khứ xa hơn, "mười năm trước".

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 25/07/2022