Một số vấn đề về hoạt động dịch vụ ngân hàng tại sở giao dịch nhct Việt Nam - 3

không hoạt động

Nguồn báo cáo tình hình mở và sử dụng tài khoản cá nhân tại Sở giao

dịch năm 1996, 1997, 1998.

- Đối với dịch vụ chuyển tiền cá nhân: Do quán triệt được tinh thần đẩy mạnh công tác dịch vụ chuyển tiền trong dân cư không chỉ đơn thuần là thu dịch vụ phí mà nó còn mang ý nghĩa quan trọng thu hút được lượng tiền mặt vào ngân hàng, thúc đẩy công tác thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực dân cư, tiết kiệm chi phí lưu thông và ngân hàng sẽ thực hiện được vai trò trung tâm thanh toán của nền kinh tế. Nên Sở giao dịch đã tổ chức tốt dịch vụ chuyển tiền cá nhân với các hình thức chuyển tiền nhanh hoặc chuyển bình thường theo yêu cầu của khách hàng.

Đến tháng 8/1999 thực hiện công văn 2098/CV - NHCT 10 ngày 9/8/1999 của NHCTVN "hướng dẫn bổ xung chuyển tiền cá nhân" Sở đã thực hiện chi trả tiền đến tận nhà nếu khách hàng yêu cầu. Vì vậy khách hàng không phải thường xuyên gọi điện đến Ngân hàng để hỏi gây mất thời gian và phiền hà cho khách. Dịch vụ chuyển tiền cá nhân của Sở giao dịch đã tăng nhanh qua các năm.

Phí dịch vụ áp dụng đối với thanh toán chuyển tiền trong nước hiện tại Sở đang áp dụng theo quy định chung của ngân hàng Nhà nước và hướng dẫn của NHCT là: 2000đ/1 món thanh toán bù trừ trong đó ngân hàng Nhà nước thu 1000đ/1 món và NHCT được hưởng 1000đ/1 món không kể giá trị thanh toán cao hay thấp, như vậy là quá thấp so với mức phí áp dụng trong thanh toán điện tử.

Phí thanh toán điện tử là 0,05% trên tổng số tiền chuyển khoản và 0,1% trên tổng số tiền chuyển bằng tiền mặt và tối đa là 500.000đ/1 món tối thiểu là 20000/1 món, như vậy phí thanh toán điện tử cao hơn gấp nhiều lần so với phí áp dụng trong thanh toán bù trừ trên địa bàn thành phố. Theo quy định đối với những món chuyển tiền giữa các chi nhánh trong hệ thống NHCT nhưng cùng trên địa bàn thành phố phải qua mạng thanh toán địa tử nên mức phí khách hàng phải trả sẽ cao hơn rất nhiều so với phí thanh toán bù trừ trong khi thời gian luân chuyển chứng từ là tương đương nhau. Đây là điểm bất hợp lý, do đó nhiều khách hàng có xu hướng mở tài khoản ở nhiều ngân hàng khác hệ thống trên cùng địa bàn thành phố như ngân hàng Ngoại thương, ngân hàng Đầu tư phát triển, ngân hàng Nông nghiệp để chuyển tiền trong nội bộ ngân hàng vừa nhanh hơn lại không phải mất phí hoặc chuyển tiền qua hệ thống thanh toán bù trừ với mức phí thấp.

Đối với các món chuyển tiền ra ngoài hệ thống khác tỉnh, TP phải chuyển chứng từ thanh toán qua ngân hàng Nhà nước và ngân hàng Nhà nước thu phí 0,05% cho 1 món chuyển tiền, tối thiểu 20000đ/1món, tối đa 500000đ/món đây cũng là mức trần mà Nhà nước quy định thu của khách hàng. Vì vậy NHCT chỉ thực hiện việc thanh toán hộ cho khách hàng mà không được hưởng một đồng phí nào, đây là điểm bất hợp lý thứ 2, nhưng đứng trên giác độ tổng thể thì việc không được hưởng phí ở dịch vụ này để đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng cũng như phục vụ cho các nghiệp vụ khác của Sở giao dịch thì đó cũng là việc mà Sở giao dịch phải chấp nhận.

2.2 Dịch vụ thanh toán quốc tế.

a. Kết quả.

Từ năm 1991, NHCTVN được phép chính thức hoạt động thanh toán quốc tế và bước đầu nghiệp vụ này cũng được thực hiện tại Sở giao dịch. Hiện nay nghiệp vụ thanh toán quốc tế đã được triển khai và phát triển nhanh chóng ở hầu hết các chi nhánh NHCT trên toàn quốc. Doanh số thanh toán hoạt động thanh toán quốc tế của Sở giao dịch nói riêng và của NHCTVN nói chung ngày càng tăng nhưng vẫn bảo đảm an toàn, chính xác và theo đúng thông lệ quốc tế. Các phương thức thanh toán quốc tế như chuyển tiền, nhờ thu, séc, tín dụng chứng từ... đều được thực hiện tại Sở giao dịch với một quy trình thanh toán hợp lý và trình độ chuyên môn cao đã làm tăng số lượng khách hàng giao dịch và nâng cao uy tín của NHCT trong nội địa cũng như trên trường Quốc tế (Xem biểu 7 trang 41).

BIỂU 7 - THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI SỞ GIAO DỊCH

Đơn vị: 1000 USD




1996

1997

1998


Số tiền

% so 1996


Số tiền

% so 1997

1. L/C Nhập

89,627

54,823

61,4

50,381

91,9

2. L/C Xuất

2,911

1.320

45,35

1,573

119.2

3. Nhờ thu

3,330

4.360

130,9

4,518

103,6

4. Kiều hối

2,548

5,203

197,1

5,794

115,4

5. Séc

465

548

117,8

1250

228,1

Tổng cộng

98,881

66254


63.516


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 36 trang tài liệu này.

Một số vấn đề về hoạt động dịch vụ ngân hàng tại sở giao dịch nhct Việt Nam - 3

Nguồn báo cáo của Sở giao dịch NHCTVN năm 1996, 1997, 1998.

Đặc biệt sau khi NHCT tham gia mạng SWIFT thì hoạt động thanh toán quốc tế thực sự biến đổi về chất với quy mô lớn trên lĩnh vực xử lý thông tin nhận đến truyền đi, góp phần đẩy nhanh quá trình hội nhập của Sở giao dịch nói riêng và của NHCT nói chung vào hệ thống thanh toán toàn cầu. Thanh toán quốc tế tăng nhanh với tốc độ và hiệu quả cao.

Ngoài ra Sở giao dịch cũng rất chú trọng phát triển các dịch vụ ngân hàng bằng ngoại tệ như séc du lịch, visacard, chi trả kiều hối thể hiện những dịch vụ này đã tăng nhanh qua các năm. Được sự uỷ quyền của NHCTVN Sở giao dịch I không những thực hiện các nghiệp vụ này cho bản thân mình mà còn làm đầu mối cho các NHCT phía Bắc trong nhận, phát, thanh toán, gửi séc du lịch, bảng kê, lập lệnh đòi tiền các tổ chức phát hành séc du lịch, visacard... Các loại séc du lịch như Tomascook, mastercard, citicorp, Amex, được thanh toán chính xác nhanh chóng qua Sở giao dịch.

Qua biểu 7 trang 41 cho thấy Sở giao dịch đã áp dụng đa dạng các phương thức thanh toán quốc tế như chuyển tiền, thanh toán nhờ thu, séc, nhưng chủ yếu vẫn là phương thức thanh toán bằng thư tín dụng, chiếm từ 82% - 94% trong tổng doanh số thanh toán. Trong đó thu tín dụng nhập khẩu chiếm tới 75% doanh số thanh toán và lượng thông báo L/C xuất khẩu qua Sở giao dịch chiếm ít. Mặc dù phương thức thanh toán tín dụng chứng từ chiếm tỷ trọng lớn nhưng lại có chiều hướng giảm sút. Điều này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân:

Nguyên nhân chủ quan: Phí thanh toán L/C tương đối cao và gồm nhiều loại phí. Một số mức phí sàn vẫn cao hơn ngân hàng Ngoại thương. Chẳng hạn phí thanh toán một bộ chứng từ mức tối thiểu là 20 USD nhưng ở ngân hàng Ngoại thương con số này chỉ là 10 USD và tối đa không quá 150 USD. Phí thanh toán L/C hàng nhập mức phí là 0,2% giá trị L/C tối thiểu 20 USD, tối đa 300USD còn ở ngân hàng Ngoại thương tối thiểu chỉ là 10 USD và tối đa là 300USD, tại một số ngân hàng thương mại cổ phầnkhác thì còn thấp hơn nữa (EXIMBANK). Một doanh nghiệp khi tiến hành mở L/C sẽ phải chịu một số phí sau khi mở L/C như phí sửa đổi (nếu có), phí cam kết thanh toán (đối với các công ty TNHH) phí truyền tin mạng SWIFT, phí thanh toán, phí bảo lãnh không vận đơn (nếu để Sở giao dịch ký hậu trước khi có bộ chứng từ). Đó là một số loại phí và các doanh nghiệp phải chịu, nếu tỷ lệ phí thấp hơn sẽ hấp dẫn khách hàng hơn.

- Thủ tục mở L/C còn tương đối phức tạp: Một doanh nghiệp muốn tiến hành mở L/C phải làm thủ tục với không ít hơn hai phòng. Nếu doanh nghiệp chưa có tài khoản ngoại tệ thì còn phải làm việc với phòng kế toán để mở tài khoản bằng ngoại tệ. Sau đó làm việc với phòng kinh doanh để xem mức ký gửi và nếu muốn xin giảm mức ký quỹ còn phải qua xét duyệt của Giám đốc. Khi mở L/C doanh nghiệp phải qua nhiều khâu, trình nhiều giấy tờ: uỷ nhiệm chi, hạn ngạch (quota) (nếu có), đơn xin mở thư tín dụng. Nên nhiều khi rất mất thời gian để có thể mở được L/C điều này có thể ảnh hưởng tới thời hạn giao hàng.

- Việc đào tạo cán bộ còn nhiều hạn chế, một số được đào tạo trong thời kỳ bao cấp, do vậy việc tiếp thu kiến thức mới đòi hỏi phải được đào tạo lại.

- Hoạt động thanh toán đặc biệt là thanh toán hàng xuất khẩu chưa được quan tâm thích đáng so với ngân hàng Ngoại thương một ngân hàng có bề dày trong công tác thanh toán quốc tế thì công tác thanh toán quốc tế tại Sở giao dịch nói riêng và NHCTVN nói chung là một hoạt động còn mới mẻ do vậy Sở giao dịch chưa thực sự thu hút được sự chú ý của các doanh nghiệp trong nước cũng như các ngân hàng nước ngoài.

- Thêm nữa hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu suy giảm một phần do điều kiện kinh tế xã hội trong những năm gần đây hết sức khó khăn đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng tài chính nổ ra làm thu hẹp một khoảng thị trường lớn của các doanh nghiệp Việt Nam. Mặt khác do sự mất giá của tiền tệ ở các nước Đông Nam Á làm cho giá cả hàng hoá ở nước ta trở nên đắt tương đối so với hàng hoá của họ. Điều này làm cho hoạt động xuất nhập khẩu giảm mạnh kéo theo hoạt động thanh toán quốc tế cũng theo đó mà suy giảm.

- Chính sách của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Mặc dù có chủ trương đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu nhưng cho đến nay vẫn chưa có một chính sách nào thực sự có hiệu quả, hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra hết sức vụn vặt, lẻ tẻ.

Đặc biệt kể từ ngày 1/1/1999 chúng ta áp dụng luật thuế giá trị gia tăng do một số doanh nghiệp còn kém hiểu biết về loại thuế này nên rất ngại tiến hành hoạt động xuất nhập khẩu. Chính sách tiền tệ đã phát huy tác dụng nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn chưa thực sự tin tưởng. Nhiều khi không dám nhập khẩu vì sợ tỷ giá tăng như những năm trước.

- Mặt khách Sở giao dịch bị mất một số khách hàng do trong năm 1998 tình hình ngoại tệ khá căng thẳng không thể đáp ứng đủ nhu cầu nên một số khách hàng đã chuyển sang ngân hàng khác, một lượng khách hàng khác không tiếp tục giao dịch do chỉ được phép mở một tài khoản nên nhiều khách hàng đã chọn ngân hàng Ngoại thương. Vì vậy Sở giao dịch đã phải đối mặt với không ít khó khăn mà trước hết là lượng khách hàng mỏng như hiện nay.

2.3 Dịch vụ bảo lãnh.

Trong nhiều năm qua Sở giao dịch đã mở rộng và tăng cường nghiệp vụ bảo lãnh đặc biệt là bảo lãnh trong nước được chú trọng, đáp ứng kịp thời các nhu cầu đa dạng về bảo lãnh cho khách hàng của mình sau khi đã kiểm tra thủ tục trước khi bảo lãnh. Các loại bảo lãnh mà Sở đã áp dụng đó là bảo lãnh mua hàng trả chậm, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh bảo hành, bảo lãnh thanh toán. Bình quân hàng năm Sở đã bảo lãnh được xấp xỉ 100 món chủ yếu là bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu. Còn bảo lãnh mở L/C nhập hàng trả chậm rất hạn chế từ năm 1995 trở lại đây mới thực hiện bảo lãnh 3 món. Trong đó có 1 món bảo lãnh cho công ty Sakyno mở L/C nhập hàng trả chậm trị giá 7.662.738 USD, doanh nghiệp mới thanh toán 666,973 còn lại 6.995.765 USD đến hạn doanh nghiệp không trả được và ngân hàng đã phải trả nợ nước ngoài thay cho doanh nghiệp.

Nhìn chung, nghiệp vụ bảo lãnh đã góp phần thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá tạo nguồn vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giúp cho các nhà đầu tư nước ngoài có cơ hội yên tâm đầu tư vào Việt Nam và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp của Việt Nam vay vốn để

cải tiến kỹ thuật, công nghệ sản xuất, khai thác nhiều tài nguyên của đất nước đặc biệt là tạo việc làm cho người lao động.

Hiện tại nhu cầu bảo lãnh của doanh nghiệp thì nhiều nhưng còn vướng mắc về tài sản thế chấp, mức uỷ quyền trình Trung ương, quy định khống chế bảo lãnh cho một khách hàng không quá 10%, vốn tự có của NHCT,... Do đó đã phần nào làm ảnh hướng đến việc mở rộng và phát triển loại dịch vụ này của Sở giao dịch.

2.4 Dịch vụ chiết khấu thương phiếu và chứng từ có giá.

Trước đây Sở giao dịch đã thực hiện chiết khấu chứng từ có giá là L/C xuất nhưng với thủ tục phức tạp và rất hạn chế, còn đối với những thương phiếu và chứng từ có giá trong nước thì chưa thực hiện. Đến đầu năm 1999 Sở mới bắt đầu triển khai hoạt động chiết khấu các chứng từ có giá trong nước là các trái phiếu kho bạc Nhà nước.

III-/ ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÁC DỊCH VỤ NGÂN

HÀNG CỦA SỞ GIAO DỊCH.

1-/ Kết quả đạt được:

Hơn 10 năm qua cùng với sự lớn mạnh của hệ thống NHCTVN thì Sở giao dịch cũng từng bước trưởng thành và luôn giữ vững là chi nhánh đứng đầu hệ thống NHCT. Cùng với sự phát triển của các nghiệp vụ truyền thống như huy động vốn và cho vay, thanh toán chuyển tiền nhanh gọn chính xác đáp ứng nhu cầu của khách hàng, dưới sự điều hành của NHCTVN và Ban giám đốc Sở thì các hoạt động dịch vụ ngân hàng ngày càng được hoàn thiện và mở rộng, chất lượng dịch vụ thanh toán chuyển tiền của NHCTVN nói chung và Sở giao dịch nói riêng ngày càng tốt hơn, luôn đảm bảo khả năng chi trả cho khách hàng với thời gian ngắn nhất. Với bước đột phá trong kỹ thuật liên hàng nội bộ, thanh toán liên hàng nội bộ đã được thực hiện và thông qua mạng máy tính liên kết các chi nhánh trong toàn quốc qua MODEM thoại và việc tiến hành khôi phục các chứng từ qua máy vi tính đã ổn định, rút ngắn thời gian thanh toán, chất lượng thanh toán cũng đảm bảo hơn, ít sai sót hơn.

Từ ngày 01/7/96 việc áp dụng thanh toán điện tử đã tác động mạnh mẽ đến công tác thanh toán của NHCTVN nói chung và của Sở giao dịch nói riêng, thời gian thanh toán chuyển tiền trước kia phải thực hiện từ 5 - 7 ngày, nay rút xuống chỉ còn 1 ngày.

Chương trình thanh toán điện tử thực hiện quản lý và điều hành vốn tập trung chuyển tiền đi, đến, quyết toán trong ngày, nên đã nâng cao chất lượng của công tác thanh toán và mở rộng uy tín với khách hàng. Ngoài thanh toán trong nội bộ hệ thống ngân hàng, công tác thanh toán ra ngoài hệ thống trên địa bàn tỉnh, thành phố được thực hiện bằng phương thức thanh toán bù trừ qua ngân hàng Nhà nước. Các ngân hàng thương mại và kho bạc Nhà nước phải mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước để thanh toán bù trừ và phương thức này vẫn thực hiện bán cơ giới tức là các ngân hàng thương mại đánh chứng từ bù trừ vào máy. Sau đó sao chép ra đĩa mềm hay truyền qua MODEM thoại để đi bù trừ số phiên bù trừ trong ngày từ 1 - 2 phiên, nếu qua giờ giao dịch bù trừ là chứng từ không đi được phải để lại hôm sau. Tuy nhiên thời gian thực hiện của thanh toán bù trừ tương đối nhanh. Nghiệp vụ ghi nợ, có được thực hiện ngay trong ngày, nhưng phạm vi thanh toán nhỏ hẹp chỉ trên cùng một địa bàn tỉnh, thành phố. Nếu thanh toán khác tỉnh và khác hệ thống thì phải qua nhiều khâu trung gian nên tốc độ thanh toán rất chậm nên phần nào ảnh hưởng đến doanh số thanh toán ra ngoài hệ thống bởi quy trình thanh toán như sau:


Ngân hàng Nhà nước


lnh chi


B/Có

Ngân hàng Nhà nước


B/Có


Ngân hàng Công thương

Ngân hàng Thương mi B


lnh chi


Khách hàng A Khách hàng B


Từ 12/97 NHCTVN và NHĐTPTVN đã chính thức thực hiện quy trình thanh toán thu chi hộ giữa hai ngân hàng. Còn quy trình thanh toán với ngân hàng Cổ phần Hàng hải, Citibank, ngân hàng Phát triển nông nghiệp Việt Nam đã được hoàn thiện đưa vào hoạt động chính thức từ đầu quý 2 năm 98. Do vậy số lượng chứng từ cũng như doanh số thanh toán ra ngoài hệ thống đi qua ngân hàng Nhà nước đã giảm hẳn góp phần đẩy nhanh tốc độ thanh toán qua ngân hàng. Vì vậy nếu năm 96: Số lượng thanh toán ra ngoài hệ thống là 8622 món với doanh số 35.368.576 triệu thì đến năm 1998 đã giảm đi và chỉ còn 4252 món với doanh số thanh toán là 21.668.904 triệu đồng (Xem biểu 8 trang 47).

Để cải tiến thêm một bước trong việc nâng cao chất lượng của công tác thanh toán ra ngoài tỉnh khác hệ thống tháng 11/1996 ngân hàng Công thương Việt Nam đã nối mạng thanh toán với sở giao dịch ngân hàng Nhà nước thực hiện việc điều chuyển vốn từ NHCT đến các chi nhánh trực thuộc và ngược lại cho đến nay đã và đang phát huy hiệu quả tốt mở đường cho công tác thanh toán giữa các TCTD với NHCTVN.


BIỂU 8 - BÁO CÁO THANH TOÁN CHUYỂN TIỀN TRONG NƯỚC



Chỉ tiêu

Năm 1996

Năm 1997

Năm 1998

Số Món

Số tiền

Số Món

Số tiền

Số Món

Số tiền

Phân loại theo phương







thức thanh toán







1. Thanh toán ngoài hệ







thống







a. T.toán bù trừ

95.415

13.195.594

119.452

23.089.920

121.796

22.184.574

b. T.toán khác hệ







thống, ngoài tỉnh,

8.622

35.368.576

4.624

22.566.637

4.252

21.668.904

thành phố.







2. Thanh toán liên







hàng trong hệ thống

82.973

59.471.396

83.919

27.780.277

91.341

28.578.330

NHCT







3. T.toán trong nội bộ

CN

169.197

69.236.628

128.058

86.347.598

128.527

93.241.972

Tổng cộng

356.207

177.272.194

336.053

159.784.432

345.916

165.673.780



34

Hệ thống thiết bị công nghệ thông tin và phần mềm tin học tại Sở giao dịch bao gồm: 35 máy PC pentium 586, 4 máy in laser, 20 máy in kim, 2 máy chủ Tricord, 1 máy chủ S50 được cài đặt hệ điều hành Unix và Netware. Ngoài ra còn có hệ thống truyền thông để truyền số liệu với trung ương phục vụ cho các chương trình thanh toán điện tử và chương trình thanh toán quốc tế. Công tác truyền nhận được thực hiện qua đường X25 đáp ứng công tác thanh toán được nhanh và an toàn giữa các chi nhánh của NHCT Việt Nam có tham gia hệ thống thanh toán điện tử.

Đa số máy PC hiện đang sử dụng đều được kiểm tra tính tương thích năm 2000 được cài đặt hệ điều hành Windows 95 hoặc Windows

98. Các máy PC được kết nối vào mạng cục bộ với mô hình mạng Star để khai thác thông tin chung trong máy chủ.

Với mô hình mạng cục bộ mới được nâng cấp từ mô hình cũ (Mô hình Bus) đã được xây dựng cách đây nhiều năm, sang mô hình mới (Mô hình Star) sẽ đảm bảo tính an toàn cao của mạng máy tình cũng như giải quyết được vấn đề tốc độ truy nhập vào mạng của máy tính PC.

Hiện nay Sở giao dịch I đã triển khai các phần mềm quản lý kế toán tín dụng (Misac), quản lý tiết kiệm (Samis). Hệ thống thanh toán quốc tế (IBS), hệ thống thanh toán điện tử (EPS) tất cả các hệ thống phần mềm này đều được xây dựng trên cơ sở dữ liệu Oracle 7.3 và được cài đặt trên máy chủ S50 (Một máy chủ dự phòng Tricord đảm bảo khi có sự cố vẫn hoạt động liên tục). Đặc biệt hiện nay tại Sở giao dịch I đã triển khai mô hình giao dịch tiết kiệm tức thời với khách hàng tại hai quỹ tiết kiệm 05 và 72, tại quỹ tiết kiệm 05 các số liệu được cài đặt trong máy chủ trung đặt tại phòng Thông tin điện toán, còn tại quỹ tiết kiệm 72 số liệu được cài đặt trên máy PC đặt tại quỹ với hệ quản trị cơ sở dữ liệu Oracle for PC 7.3.

Việc đưa tin học vào các hoạt động ngân hàng tại Sở giao dịch được ban lãnh đạo ngân hàng CTVN và ban giám đốc Sở quan tâm. Do đó công tác thanh toán tại sở đã có bước chuyển biến lớn. Với độ chính xác cao, an toàn, tạo thêm lòng tin của khách hàng đối với Sở giao dịch. Đồng thời Sở giao dịch đã từng bước mở rộng và phát triển nghiệp vụ thanh toán Quốc tế như mở LC, kinh doanh ngoại tệ, đại lý thanh toán thẻ quốc tế, dịch vụ kiều hối... đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.

Xem tất cả 36 trang.

Ngày đăng: 25/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí