Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu tân dược và nguyên liệu sản xuất thuốc tân dược tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu y tế Việt Nam - 2

quả hoạt động nhập khẩu tân dược và nguyên liệu sản xuất thuốc tân dược tại Công ty cổ phần xuất nhập khẩu y tế Việt Nam và từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu tân dược và nguyên liệu sản xuất thuốc tân dược tại Công ty cổ phần xuất nhập khẩu y tế Việt Nam.‌

III. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu:

Bài khóa luận trên hướng đến đối tượng nghiên cứu là hoạt động nhập khẩu thuốc tân dược và nguyên liệu sản xuất thuốc tân dược qua đó đánh giá hiệu quả hoạt động nhập khẩu thuốc tân dược và nguyên liệu sản xuất thuốc tân dược tại Công ty cổ phần xuất nhập khẩu y tế Việt Nam.

Để làm sáng rõ nội dung nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu thuốc tân dược và nguyên liệu sản xuất thuốc tân dược tại Công ty cổ phần xuất nhập khẩu y tế Việt Nam, người viết khóa luận này sử dụng số liệu hoạt động kinh doanh nhập khẩu tân dược và nguyên liệu sản xuất thuốc tân dược từ năm 2007 đến năm 2009 do Công ty cổ phần xuất nhập khẩu y tế Việt Nam cung cấp.

Với mục đích phân tích thấu đáo nội dung của đề tài, người viết đã sử dụng kết hợp phương pháp đánh giá, phân tích định tính, phân tích định lượng và so sánh và phương pháp thu thập và xử lý thông tin, bao gồm thông tin sơ cấp và thứ cấp.

V. Bố cục:

Ngoài mục lục, danh mục bảng biểu, danh mục sơ đồ, lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, bài khóa luận này còn bao gồm ba chương chính như sau:

- Chương 1: Cơ sở lý luận về hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp

- Chương 2: Thực trạng hoạt động kinh doanh nhập khẩu thuốc tân dược và nguyên liệu sản xuất thuốc tân dược tại Công ty cổ phần xuất nhập khẩu y tế Việt Nam

- Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu thuốc tân dược và nguyên liệu sản xuất thuốc tân dược tại Công ty cổ phần xuất nhập khẩu y tế Việt Nam.

Với nhận thức và khả năng còn nhiều hạn chế, bài khóa luận này không tránh khỏi những thiếu sót. Người viết khóa luận này mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy, cô giáo để bài viết ngày càng hoàn thiện hơn.


Hà Nội, Ngày 30/03/2010

Ngô Ngân Hà

CHƯƠNG 1:

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP‌


I. Khái quát về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp

Hiệu quả kinh doanh là mối quan tâm hàng đầu của mọi nền sản xuất xã hội nói chung và của mọi doanh nghiệp nói riêng. Vậy hiệu quả kinh doanh là gì? Bản chất của hiệu quả hoạt động kinh doanh là gì? Tất cả các câu hỏi trên sẽ được làm rõ sau đây.

1. Khái niệm hiệu quả kinh doanh

Để hiểu đúng đắn khái niệm hiệu quả kinh doanh, trước hết cần tìm hiểu khái niệm kinh doanh. Có nhiều cách hiểu khác nhau về kinh doanh

Theo Luật Doanh Nghiệp 2005: “ Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phầm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”.1

Từ điển kinh tế có khái niệm về kinh doanh như sau: “ Kinh doanh là hoạt động nhằm mục đích sinh lời của các chủ thể kinh doanh trên thị trường”.2

Từ trước tới nay, các nhà kinh tế đã đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tùy theo từng lĩnh vực nghiên cứu mà có các quan điểm khác nhau về hiệu quả kinh doanh. Dưới đây là một số quan điểm về hiệu quả kinh doanh:

Nhà kinh tế học người Anh, Adam Smith cho rằng : “Hiệu quả là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế, doanh thu tiêu thụ hàng hóa”.

Theo cách tiếp cận khác, khái niệm về hiệu quả kinh doanh được hiểu như sau: “ Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức độ hữu ích của sản phẩm sản xuất ra tức là giá trị sử dụng của nó; hoặc là doanh thu, nhất là lợi nhuận thu được sau quá



1 Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2005, Khoản 2, Điều 4, Chương 1

2 , Kinh tế thương mại dịch vụ, Nhà xuất bản thống kê, tr 91

trình kinh doanh. Quan điểm này lẫn lộn giữa hiệu quả với kết quả sản xuất kinh doanh, giữa hiệu quả với mục tiêu kinh doanh.

Hiệu quả sản xuất kinh doanh là sự tăng trưởng kinh tế, được phản ánh qua nhịp độ tăng của các chỉ tiêu kinh tế. Cách hiểu này là phiến diện chỉ đứng trên giác độ biến động theo thời gian.

Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức độ tiết kiệm chi phí và mức tăng kết quả kinh tế. Đây là biểu hiện của bản chất mà không phải là khái niệm về hiệu quả kinh tế.

Hiệu quả sản xuất kinh doanh là các chỉ tiêu được xác định bằng tỷ lệ so sánh giữa kết quả và chi phí. Định nghĩa như vậy chỉ đề cập đến cách xác lập chỉ tiêu chứ không toát lên ý niệm của vấn đề.

Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức tăng của các kết quả sản xuất kinh doanh trên mỗi lao động hau mức doanh lợi của vốn sản xuất kinh doanh. Quan điểm này muốn quy hiệu quả sản xuất kinh doanh về một chỉ tiêu tổng hợp cụ thể nào đó

Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế biểu hiện tập trung của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực và trình độ chi phí các nguồn lực đó trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh. Nó là thước đo ngày càng trở nên quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế và là chỗ dựa cơ bản để đánh giá việc thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp trong từng thời kỳ ”.3

Đỗ Hoàng Toàn cũng đã đưa ra khái niệm về hiệu quả kinh doanh: “Hiệu quả kinh doanh là chỉ tiêu kinh tế - xã hội tổng hợp để lựa chọn các phương án hoặc các quyết định trong quá trình hoạt động thực tiễn ở mọi lĩnh vực kinh doanh và tại mọi thời điểm. Bất kỳ các quyết định cần đạt được phương án tốt nhất trong điều kiện cho phép, giải pháp thực hiện có tính cân nhắc, tính toán



3 Phạm Ngọc Kiểm (1999), Thống kê doanh nghiệp, Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội, tr 251

chính xác phù hợp với sự tất yếu của quy luật khách quan trong từng điều kiện cụ thể”.4



Kết quả đầu ra

Hiệu quả kinh doanh

=



Chi phí đầu vào

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu tân dược và nguyên liệu sản xuất thuốc tân dược tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu y tế Việt Nam - 2

Từ các khái niệm trên có thể tổng hợp và đưa ra công thức chung để đánh giá hiệu quả kinh doanh như sau:


(1)


Hay:




Chi phí đầu vào

Hiệu quả kinh doanh

=



Kết quả đầu ra

(2)


Kết quả đầu ra có thể đo bằng các chỉ tiêu như: giá trị tổng sản lượng, doanh thu thuần, lợi nhuận thuần, lợi nhuận gộp, kim ngạch xuất nhập khẩu… Chi phí đầu vào bao gồm: lao động, đối tượng lao động, vốn chủ sở hữu, vốn vay.

Công thức (1) cho thấy sức sản xuất (mức sinh lời) của các yếu tố đầu vào được tính cho tổng số và riêng cho giá trị gia tăng. Công thức này cho biết một đơn vị đầu vào được sử dụng cho ra bao nhiêu kết quả đầu ra.

Công thức (2), nghịch đảo của công thức (1), phản ánh sức hao phí các chỉ tiêu đầu vào, nghĩa là để có một kết quả đầu ra thì cần có bao nhiêu đơn vị yếu tố đầu vào được sử dụng.

Theo cách hiểu như trên, hiệu quả kinh doanh không chỉ là sự so sánh giữa kết quả đầy vào và kết quả đầu ra mà hiệu quả kinh doanh được hiểu trước hết là phải hoàn thành mục tiêu kinh doanh, nếu không hoàn thành mục tiêu kinh


4 Đỗ Hoàng Toàn (1994), Những vấn đề cơ bản về quản trị doanh nghiệp, Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội, tr 83

doanh thì không thể có hiệu quả kinh doanh và để hoàn thành mục tiêu kinh doanh đó cần phải sử dụng nguồn lực như thế nào?

Điều này thể hiện một quan điểm mới là không phải lúc nào cũng là để đạt được mục tiêu thì phải giảm chi phí mà vấn đề là sử dụng chi phí đó như thế nào, có những chi phí không cần thiết thì phải giảm nhưng cũng có những chi phí cần tăng lên vì chính việc tăng những chi phí này sẽ giúp cho doanh nghiệp tăng kết quả đầu ra và hoàn thành mục tiêu tốt hơn. Tác giả nhận thấy đây là một quan điểm mới có tính thuyết phục và quan trọng hơn, khi áp dụng quan điểm này thì hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp được đánh giá sát thực, giúp cho doanh nghiệp ra quyết định chính xác trong kinh doanh.

2. Đặc điểm hiệu quả kinh doanh

Từ khái niệm về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp có thể thấy hiệu quả kinh doanh có các đặc điểm như sau:

Thứ nhất, hiệu quả kinh doanh là một phạm trù phức tạp và khó xác định. Nguyên nhân là do hiệu quả kinh doanh là được xác định bởi mối tương quan giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó mà hai đại lượng này đều tương đối khó xác định trên thực tế do nhiều lý do khác nhau.

Thứ hai, hiệu quả kinh doanh khó xác định được kết quả mà doanh nghiệp thu được. Kết quả mà doanh nghiệp thu được thông thường được biểu hiện giá trị dưới dạng là tiền tệ. Bất cứ sự thay đổi trên thị trường của đồng tiền đều có thể ảnh hưởng đến việc xác định kết quả đạt được của doanh nghiệp.

Thứ ba, hiệu quả kinh doanh khó xác định được chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra một cách chính xác vì chi phí cũng chịu ảnh hưởng của đồng tiền. Mặt khác một chi phí bỏ ra có thể tham gia vào nhiều chu kỳ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thì việc phân bổ chi phí đó cho từng chu kỳ, từng đối tượng chỉ mang tính tương đối mà thôi. Hơn nữa, chi phí không chỉ là những chi phí trực tiếp mang lại kết quả cho doanh nghiệp mà còn bao gồm cả những chi phí gián tiếp liên quan đến quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như: chi phí dành cho giáo dục, cải tạo môi trường… có tác động không nhỏ đến kết quả kinh

doanh và các chi phí này khó tính toán trong quá trình xem xét hiệu quả kinh doanh.

Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế, thông qua đó doanh nghiệp có thể đưa ra các quyết định đầu tư chính xác cho doanh nghiệp mình để hoạt động sản xuất của doanh nghiệp thu được kết quả cao nhất với chi phí đầu vào thấp nhất. Do vậy cần nắm vững đặc điểm của hiệu quả kinh doanh để vận dụng chính xác trong quá trình nghiên cứu.

3. Phân loại hiệu quả kinh doanh

Hiệu quả kinh doanh được biểu hiện dưới nhiều dạng khác nhau. Mỗi dạng có những đặc trưng và ý nghĩa nghiên cứu khác nhau. Việc phân loại sau đây chỉ mang ý nghĩa tương đối.

3.1. Hiệu quả kinh tế cá biệt và hiệu quả kinh tế - xã hội

Hiệu quả kinh tế cá biệt là hiệu quả kinh tế thu được từ hoạt động thương mại của doanh nghiệp, của từng thương vụ kinh doanh. Biểu hiện chung của hiệu quả cá biệt là lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt được. Tiêu chuẩn cơ bản của hiệu quả này là lợi nhuận cao và ổn định nhất. Trong công tác quản lý thương mại, hiệu quả cá biệt là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp và nhà đầu tư.

Hiệu quả kinh tế - xã hội là sự đóng góp của hoạt động thương mại vào việc phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động, nâng cao đời sống xã hội…

Hiệu quả kinh tế - xã hội và hiệu quả cá biệt có mối quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau. Hiệu quả kinh tế - xã hội đạt được trên cơ sở hiệu quả cá biệt. Tuy nhiên vẫn có những trường hợp hiệu quả cá biệt của doanh nghiệp nào đó không đảm bảo nhưng vẫn có thể thu được hiệu quả chung của cả nền kinh tế do nhiều nguyên nhân khác nhau. Mặt khác, để thu được hiệu quả kinh tế

- xã hội đôi khi cần phải từ bỏ một hiệu quả cá biệt nào đó. Bởi vậy Nhà Nước cần có chính sách kết hợp hài hòa lợi ích của từng doanh nghiệp với lợi ích của xã hội trên cơ sở là đặt hiệu quả cá biệt trong hiệu quả kinh tế - xã hội.

3.2. Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh

Hiệu quả tuyệt đối là lượng hiệu quả được tính toán cho từng phương án cụ thể bằng cách xác định mức lợi ích thu được với lượng chi phí bỏ ra. Chẳng hạn, tính toán mức lợi nhuận thu được từ một đồng chi phí sản xuất, từ một đồng vốn bỏ ra…

Hiệu quả so sánh được xác định bằng cách so sánh các chỉ tiêu hiệu quả tuyệt đối của các phương án khác nhau. Nói cách khác, hiệu quả so sánh chính là mức chênh lệch về hiệu quả tuyệt đối của các phương án từ đó cho phép lựa chọn một cách làm có hiệu quả cao nhất.

Người ta xác định hiệu quả tuyệt đối khi phải bỏ chi phí ra để thực hiện một thương vụ nào đó, để biết được với những chi phí bỏ ra sẽ thu được những lợi ích cụ thể và mục tiêu cụ thể gì để từ đó để đi đến quyết định có nên bỏ ra chi phí hay không cho thương vụ đó. Vì vậy trong công tác quản lý kinh doanh, bất kỳ công việc gì đòi hỏi phải bỏ ra chi phí dù với một lượng lớn hay nhỏ cũng đều cần phải tính toán hiệu quả tuyệt đối

Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh có môi quan hệ chặt chẽ với nhau, song cũng có tính độc lập tương đối. Trước hết xác định hiệu quả tuyệt đối là cơ sở xác định hiệu quả so sánh. Nghĩa là trên cơ sở những chỉ tiêu tuyệt đối của từng phương án, người ta so sánh mức hiệu quả ấy của các phương án với nhau. Mức chênh lệch này là hiệu quả so sánh

3.3. Hiệu quả của chi phí bộ phận và chi phí tổng hợp

Tại mỗi doanh nghiệp, chi phí bỏ ra để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh suy đến cùng là chi phí lao động xã hội, nhưng khi đánh giá hiệu quả kinh tế, chi phí lao động biểu hiện dưới dạng chi phí như:

- Chi phí trong quá trình sản xuất sản phẩm

- Chi phí ngoài quá trình sản xuất sản phẩm

Bản thân mỗi loại chi phí trên có thể phân chia chi tiết theo những tiêu thức nhất định. Do đó, khi đánh giá hiệu quả của hoạt động kinh doanh cần phải đánh giá hiệu quả tổng hợp của các loại chi phí trên đây đồng thời phải đánh giá

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 07/05/2022