So Sánh Tỷ Lệ Trẻ Mắc Mới Viêm Phổi Tại Cộng Đồng Với Tác Giả Khác


50,2/1000 CYO. Nghiên cứu thuần tập cộng đồng ở trẻ dưới 2 tuổi vùng nông thôn Matlah, mật độ mới mắc hàng năm là 30/100 năm - trẻ [82]. Kết quả tại khu vực miền núi Việt Nam cao hơn vì đánh giá tình tình viêm phổi tại cộng đồng, còn Baqui A. H, Rahman, M. chỉ đánh giá trẻ bị viêm phổi nặng phải nhập viện. So với David Burgner và CS (2005) viêm phổi ở trẻ em của Australia là 5-8/ 1000 năm - trẻ. Viêm phổi là nguyên nhân chính dẫn đến nhập viện ở trẻ dưới 5 tuổi tại nước này [97].

Bảng 4.4. So sánh tỷ lệ trẻ mắc mới viêm phổi tại cộng đồng với tác giả khác



Tác giả

Địa điểm nghiên cứu


Năm


Quốc gia

Tỷ lệ mắc mới

viêm phổi

David Burgner

Australia

2005

Phát triển

5 – 8/1000 năm – trẻ

Baqui, A. H

Bangladesh

2007

Đang phát triển

50,2/1000 năm – trẻ


Đàm Thị Tuyết

Chợ Mới- Bắc Kạn


2007


Đang phát triển


190/1000 năm – trẻ


Đàm Thị Tuyết

Chợ Mới- Bắc Kạn


2008


Đang phát triển


150/1000 năm – trẻ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 140 trang tài liệu này.

Một số đặc điểm dịch tễ và hiệu quả can thiệp đối với nhiễm khuẩn hô hấp cấp của trẻ dưới 5 tuổi tại huyện Chợ Mới - tỉnh Bắc Cạn - 15


Vấn đề này còn được một số tác giả khác trên thế giới đề cập đến: Michael Ostapchuk (2004) và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu tình hình viêm phổi mắc phải ở cộng đồng thuộc Châu Âu và Bắc Mỹ đưa ra nhận định: Viêm phổi mắc phải cộng đồng là một trong những nhiễm trùng phổ biến và nặng nhất ở trẻ em với số mới mắc hàng năm là từ 34-40 ca trên 1000 trẻ ở Châu Âu và Bắc Mỹ [109], [114], [145]. Mặc dù tử vong do viêm phổi mắc phải cộng đồng là hiếm gặp ở các nước công nghiệp phát triển, nhưng viêm phổi lại là bệnh phổ biến nhất ở trẻ dưới 5 tuổi tại các nước đang phát triển, không những tỷ lệ mắc bệnh này cao mà còn gây tử vong cao [114], [115].

Năm 2005, Thomson Talal Farha and Anne H., nghiên cứu gánh nặng do viêm phổi ở trẻ em tại các nước phát triển, cho thấy: Ước lượng tỷ lệ mới mắc khoảng 10 - 15 ca bệnh/1000 trẻ và tỷ lệ nhập viện là 1- 4/1000 trẻ mỗi năm. Cả tỷ lệ mắc và tỷ lệ nhập viện là cao nhất ở trẻ nhỏ và chủ yếu ở trẻ dưới 5 tuổi [139].


* Mật độ mới mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp theo dân tộc tại Chợ Mới

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi, bảng 3.31 cho thấy, mật độ đợt mắc mới: Không viêm phổi: Ho hoặc cảm lạnh và viêm phổi; viêm phổi nặng năm 2008 đều giảm hơn so với năm 2007. Giảm nhiều nhất là trẻ dân tộc HMông với không viêm phổi: Ho hoặc cảm lạnh: Năm 2007 (4,46 đợt/trẻ/năm, tương ứng 4460/1000 năm–trẻ), năm 2008 (2,58 đợt/ trẻ/năm, tương ứng với 2580/1000 năm - trẻ), CSHQ đạt mức 42,15 %. Tỷ lệ đợt mắc mới viêm phổi; viêm phổi nặng giảm nhiều nhất là dân tộc HMông, 2007 (0,29 đợt/trẻ/năm, tương ứng 290/1000 năm-trẻ), 2008 (0,12 đợt/trẻ/năm, tương ứng với 120/1000 năm-trẻ), CSHQ đạt mức 58,62 %.

Mật độ trẻ mắc mới: Không viêm phổi: Ho hoặc cảm lạnh và viêm phổi; viêm phổi nặng ở trẻ dân tộc thiểu số đều giảm theo năm ( bảng 3.32) cho thấy, mật độ trẻ mắc mới năm 2008 thấp hơn năm 2007. Mức độ giảm ở các dân tộc là khác nhau. Đối với không viêm phổi: Ho hoặc cảm lạnh: Trẻ dân tộc Dao thì CSHQ can thiệp đạt mức 35,42 %, trẻ dân tộc HMông, CSHQ can thiệp đạt mức 8,0 %. Đối với viêm phổi; viêm phổi nặng ở trẻ các dân tộc cũng đều giảm theo năm, mật độ trẻ mắc mới năm 2008 thấp hơn năm 2007. Trẻ dân tộc Dao CSHQ (35,63 %), trẻ dân tộc HMông (CSHQ: 30,77 %). Qua điều tra thực tế phụ nữ dân tộc Dao, mặc dù chung sống và làm việc hòa hợp với các dân tộc khác cùng trên địa bàn, nhưng tiến bộ hơn bà mẹ người HMông, họ thường giữ những chức vụ quan trọng trong cộng đồng như: Hội trưởng hội phụ nữ, y tế thôn bản…Vì vậy họ dễ tiếp cận với thông tin hơn, khả năng chăm sóc con nhỏ tốt hơn và tiếp cận với y tế tốt hơn. Còn đối với các bà mẹ người HMông, can thiệp khó khăn hơn, thời gian và mức độ thành công chậm hơn, nhưng tần suất mắc bệnh ở con của bà mẹ người HMông cũng đã giảm nhiều, đó chính là những thành công ban đầu của biện pháp can thiệp.Vì vậy biện pháp can thiệp cần được duy trì để ngoài giảm số lần mắc bệnh còn phải giảm cả số trẻ mắc mới để công tác chăm sóc sức khỏe trẻ em tại cộng đồng được tốt hơn.

Tỷ lệ hiện mắc kỳ theo mùa tại khu vực can thiệp

Nghiên cứu dọc trong 2 năm của chúng tôi đã theo dõi trẻ suốt 4 mùa: Xuân, Hè, Thu, Đông (biểu đồ 3.7 và 3.8), cho thấy: NKHHC ở trẻ dưới 5 tuổi tại khu vực nghiên cứu mắc quanh năm, tuy nhiên mắc cao hơn cả là mùa Đông – Xuân. Nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với nghiên cứu của một số tác giả khác


trên thế giới, như nghiên cứu của Zhang X. L. (2007) ở khu vực Suzhou - Trung Quốc [146] và nghiên cứu của Deng J. (2006) ở Bắc kinh -Trung Quốc [100].

Đánh giá hiệu quả và tính an toàn khi dùng Broncho- Vaxom đối với trẻ NKHHC tái phát nhiều lần ở nhóm can thiệp.

* Giảm số lần mắc bệnh

Từ trong thực tiễn, chúng tôi nhận thấy có một số các cháu nhỏ do đặc điểm như: Trẻ đẻ non, cơ địa dị ứng, dị tật, suy dinh dưỡng ... nên khả năng đề kháng yếu. Những cháu này dù bố mẹ cố gắng chăm sóc, nhưng trẻ vẫn mắc NKHHC nhiều lần. Một trong những điểm chính của nghiên cứu này là nếu sau khi can thiệp với thời gian một năm bằng TT- GDSK mà trẻ vẫn bị mắc NKHHC nhiều lần (≥10 lần NKHH trên/1 năm hoặc bị ít nhất 3 lần NKHH dưới/1 năm), nhóm nghiên cứu sẽ cho trẻ sử dụng thuốc tăng cường miễn dịch (Broncho-Vaxom), kết quả cho thấy: Khi dùng Broncho- Vaxom, NKHHC giảm tái phát rõ rệt (bảng 3.33), thể hiện bằng giảm số đợt mắc NKHHC chung, sau dùng thuốc còn (3,54 ± 2,38) so với trước khi dùng thuốc là (12,46 ± 3,60), với (p < 0,01). Trong đó đợt mắc NKHH trên cấp trung bình sau khi dùng thuốc là (2,56 ± 2,12) so với trước khi dùng thuốc là (8,15±3,71), với (p<0,01). Tương tự như vậy, số đợt mắc NKHH dưới cấp sau dùng thuốc là (0,98 ± 0,77) so với trước dùng thuốc là (4,31±1,05), với (p<0,01). Khi trẻ dùng thuốc Broncho- Vaxom, ngày mắc bệnh trung bình giảm còn (2,79 ± 1,71) so với trước dùng thuốc là (6,40±2,32), với (p<0,01). Ở bảng 3.35 cho thấy, khi trẻ dùng thuốc có 11,5 % trẻ không bị đợt NKHHC nào, còn đối với trước khi dùng thuốc thì 100 % trẻ đều bị mắc (p<0,05). NKHH trên có 26,9 % trẻ không bị đợt nhiễm khuẩn nào, còn trước khi dùng thuốc thì 100 % trẻ mắc (p < 0,01). Đối với NKHH dưới cấp thì có 30,8 % trẻ không mắc lần nào, nhưng trước khi dùng thuốc thì 100 % trẻ đều bị mắc (p <0,01). Kết quả nghiên cứu cho thấy Broncho -Vaxom có tác dụng làm giảm tần suất mắc NKHHC.

* Giảm sử dụng kháng sinh

Theo dõi về sử dụng thuốc kháng sinh, trong nghiên cứu của chúng tôi (bảng 3.36) cho thấy có 32,7 % trẻ dùng Broncho - Vaxom không phải dùng thuốc kháng sinh trong thời gian một năm theo dõi. Ngược lại, trước khi dùng Broncho- Vaxom trẻ nào cũng phải dùng kháng sinh. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,01). Số đợt phải sử dụng kháng sinh trung bình sau khi


dùng Broncho- Vaxom là (1,04 ± 0,81), so với trước khi dùng là (4,15 ± 1,22). Như vậy giảm sử dụng kháng sinh so với trước can thiệp là (3,12 ± 1,25), với (p < 0,01). Kết quả nghiên cứu cho thấy, dùng Broncho -Vaxom sẽ giảm việc sử dụng kháng sinh ở các trẻ bị NKHHC tái phát nhiều lần.

* Tính an toàn và sự chấp nhận của cộng đồng đối với Broncho- Vaxom.

Thuốc an toàn và dung nạp tốt, đó là trong 52 trường hợp sử dụng thuốc Broncho- Vaxom, không thấy trường hợp nào có tác dụng không mong muốn. Ngoài hiệu quả về mặt y tế, chúng ta còn thấy hiệu quả về xã hội đó là: Sự chấp nhận của cộng đồng, thông tin thu được từ các cuộc phỏng vấn các bà mẹ đã cho thấy: Sự tiếp cận của các bà mẹ trong thời gian đầu mới triển khai rất khó khăn, do bà mẹ chưa nhận thấy tác dụng của thuốc và ngần ngại khi phải cho trẻ sử dụng thuốc trong thời gian khá dài và nhiều đợt. Tuy vậy sau vài tháng, các bà mẹ lại hưởng ứng nhiệt tình. Nhiều trẻ sau sử dụng thuốc, đã không mắc NKHHC hoặc số lần tái phát giảm và mức độ mắc bệnh nhẹ. Ngoài lợi ích phòng bệnh cho trẻ, khía cạnh kinh tế và sự thỏa mãn của các gia đình cũng được tính đến khi cho trẻ sử dụng thuốc phòng NKHHC. Họ dự tính một đợt mắc bệnh, tổng chi phí cho chăm sóc và điều trị ước tính khoảng từ hai trăm ngàn đến hai triệu đồng, bao gồm chi phí đi lại, chăm sóc, công lao động của người chăm sóc, chi phí mua thuốc... Chính vì sự tính toán khá toàn diện cả về mặt sức khỏe, chi phí và sự hài lòng, nên người dân hưởng ứng việc cho trẻ sử dụng thuốc phòng ngay cả khi họ phải tự chi trả tiền mua thuốc với mức hai trăm năm mươi ngàn đồng vào thời điểm đó. Điều này hoàn toàn trái ngược với giả thiết của nhóm nghiên cứu và cán bộ y tế địa phương trước khi tiến hành can thiệp: “chi phí mua thuốc tăng cường miễn dịch cao sẽ là rào cản đối với người dân sống ở khu vực miền núi, vùng cao, nơi có điều kiện kinh tế khó khăn và lạc hậu”.

Nghiên cứu của các tác giả trong nước và trên thế giới cũng cho kết quả tương tự. Nguyễn Tiến Dũng, Lê Thị Hoàn và cộng sự (2007), nghiên cứu hiệu quả và tính an toàn của Broncho- Vaxom trong dự phòng NKHHC ở trẻ em trên địa bàn Hà Nội. Kết quả nghiên cứu đã chỉ rõ Broncho-Vaxom có tác dụng làm giảm tần xuất mắc NKHHC và nhu cầu sử dụng kháng sinh ở các trẻ bị NKHHC tái phát nhiều lần, thuốc an toàn và dung nạp tốt [39]. Phạm Thu Hiền, Đào Minh Tuấn (2010), nghiên cứu NKHHC tái phát và hiệu quả điều trị dự


phòng của Broncho- Vaxom cho thấy, Broncho- Vaxom có tác dụng làm giảm số lần tái phát NKHHC, giảm số lần sử dụng kháng sinh và giảm thời gian trung bình một đợt dùng kháng sinh [43].

Năm 2005, Zielnik-Jurkiewicz B. và cộng sự đã nghiên cứu ảnh hưởng của Broncho- Vaxom trong dự phòng NKHHC tái phát ở trẻ em. Nghiên cứu được tiến hành trên 32 trẻ cho thấy: Trẻ được uống Broncho-Vaxom, tần số mắc bệnh giảm một cách có ý nghĩa và thời gian mắc bệnh ngắn hơn so với nhóm chứng. Nghiên cứu đã chỉ rõ rằng điều trị bằng Broncho-Vaxom có hiệu quả cao trong trong dự phòng NKHH trên tái phát ở trẻ [147].

Hiệu quả của can thiệp đối với tình trạng trẻ mắc NKHHC đến trạm y tế xã

Tình hình trẻ mắc NKHHC đến trạm y tế khám và điều trị ở nhóm chứng và nhóm can thiệp được trình bày ở bảng 3.37: Số đợt trẻ mắc NKHH dưới cấp trung bình đến trạm ở nhóm can thiệp là (0,67 ± 0,26) nhiều hơn nhóm chứng (0,39 ± 0,35), với p<0,01. Số đợt trẻ mắc NKHH trên cấp trung bình đến trạm ở nhóm chứng là (2,80 ± 1,14) nhiều hơn xã can thiệp (2,43 ± 0,07), với p < 0,01.

Phải chăng hiệu quả này là do các bà mẹ ở xã can thiệp đã được hướng dẫn cách phát hiện, chăm sóc, xử trí NKHHC (nhẹ thì chăm sóc tại nhà, nặng đưa đến cơ sở y tế) phù hợp, làm giảm tỷ lệ phải xử lý ở tuyến trạm y tế xã vì đã được dự phòng và điều trị ban đầu tại bản. Còn ở các xã chứng khi trẻ mắc nhiễm khuẩn hô hấp trên (như ho, cảm lạnh, viêm họng…) lẽ ra chỉ cần chăm sóc trẻ tại nhà, nhưng thay vào đó các bà mẹ vẫn đưa trẻ đến trạm y tế xã, trong khi đó NKHH dưới cần phải đưa trẻ đến trạm để được khám và tư vấn cách điều trị thì một số các bà mẹ lại cho trẻ ở nhà để cúng bái hoặc chữa không đúng và đi đến thầy lang.

Chúng tôi có nghiên cứu việc xử trí NKHHC ở tuyến xã cho kết quả: Hướng dẫn điều trị tại nhà của nhóm can thiệp (92,9 %) cao hơn nhóm chứng (74,2 %), với p< 0,01. Điều trị tại trạm ở nhóm can thiệp (4,9 %) thấp hơn nhóm đối chứng (23,5 %), với p<0,01. Tỷ lệ dùng kháng sinh ở nhóm can thiệp (64,6 %) thấp hơn nhóm chứng (89,6 %), với p< 0,01.

Điều này đã cho thấy được hiệu quả của giải pháp can thiệp với hoạt động của cán bộ y tế xã. Qua tìm hiểu, chúng tôi thấy: Vai trò của cán bộ trạm y tế xã là quản lý và hỗ trợ NVYTTB thực hiện TT - GDSK, xử trí phòng chống


NKHHC. Những NVYTTB sẽ trực tiếp trao đổi với cán bộ trạm y tế trong các buổi giao ban hàng tháng, được hướng dẫn và hỗ trợ khi có yêu cầu. Cán bộ trạm y tế còn giám sát các hoạt động của YTTB qua theo dõi sổ ghi chép của họ. Cán bộ của trạm y tế xã nhiệt tình và ủng hộ cho chương trình can thiệp bởi họ nhận thấy những lợi ích cơ bản của chương trình này. Chức năng nhiệm vụ của từng loại cán bộ y tế cụ thể, rõ ràng và mang lại những lợi ích thiết thực cho các bên. Đối với người dân thì phòng bệnh, phát hiện sớm và đưa trẻ đến cơ sở y tế kịp thời để góp phần làm giảm gánh nặng bệnh tật trong cộng đồng. Đối với NVYTTB thực hành truyền thông, theo dõi trẻ tại cộng đồng và báo cáo tình hình đến trạm y tế thường qui. Đối với trạm y tế, vai trò chính là quản lý và giám sát hỗ trợ NVYTTB và xử trí trẻ bệnh. Cả ba thành phần này đều phối hợp tốt trong hệ thống, do đó làm giảm số trẻ mắc bệnh và giảm mức độ nặng của bệnh, việc sử dụng kháng sinh điều trị NKHHC cho trẻ đã giảm đi rõ rệt. Ngoài ra, do hệ thống được thiết lập lại nên các trạm y tế xã còn kết hợp lồng ghép hoạt động giữa các chương trình y tế và các chương trình khác của địa phương.

Tuy vậy, cán bộ trạm y tế xã cũng gặp phải những khó khăn nhất định trong giai đoạn đầu mới triển khai như: NVYTTB chưa nhận thức được tầm quan trọng của can thiệp, kỹ năng truyền thông còn kém, cán bộ y tế phải dành thời gian cho hoạt động này, sự phối hợp giữa cán bộ y tế, NVYTTB, người dân chưa tốt. Trải qua quá trình đào tạo, kinh nghiệm làm việc và lợi ích của chương trình dần tốt lên và mang lại kết quả nhất định.

Bên cạnh đó, các cán bộ y tế cũng khuyến cáo rằng, các hoạt động cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban ngành đoàn thể của địa phương, nhằm tăng cường niềm tin, mối quan hệ, huy động cộng đồng cùng tham gia tích cực hơn nữa.

4.3.2.2. Tác động của can thiệp làm giảm tỷ lệ mắc nhiễm khuẩn hô hấp của trẻ tại cộng đồng

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, ở khu vực can thiệp và đối chứng, trong cả hai giai đoạn trước và sau can thiệp, tỷ lệ trẻ mắc NKHHC có sự khác biệt rõ rệt được thể hiện ở bảng 3.40: NKHHC chung ở nhóm can thiệp giảm từ 42,2 % (TCT) xuống còn 24,3 % (SCT), 45,7 % (ĐC) với p<0,01, HQCT đạt mức 41,34 %. NKHH trên cấp ở nhóm can thiệp giảm từ 33,8 % (TCT) xuống còn 22,2 % (SCT), 38,9 % (ĐC) với p<0,01, HQCT đạt mức 33,55 %. NKHH dưới cấp giảm mạnh hơn so với NKHH trên cấp. Ở nhóm can thiệp giảm từ 8,4 % (TCT) xuống còn 2,0 % (SCT), 6,8 % (ĐC), với p< 0,01,


HQCT đạt mức 73,33 %. Với kết quả nghiên cứu này, chúng tôi có nhận định ban đầu là các biện pháp can thiệp tại cộng đồng có tác động đến tình hình mắc NKHHC của trẻ. Chúng tôi đã tiến hành can thiệp bằng TT- GDSK trong thời gian 2 năm và kết hợp cho trẻ uống thuốc tăng cường miễn dịch vào năm thứ hai, đồng thời đánh giá tác động bằng theo dõi dọc về mắc NKHHC của trẻ trong suốt thời gian đó. Có lẽ với việc thực hiện các biện pháp liên tục và duy trì tại cộng đồng như vậy, đã có tác động đến giảm mắc bệnh ở trẻ. Điều này cũng phù hợp với thông tin thu được từ việc phỏng vấn các bà mẹ: Con của họ được chăm sóc tốt hơn, ít mắc bệnh hơn và mức độ nặng của bệnh cũng giảm đi. Một số nghiên cứu trên thế giới cũng khảng định rõ điều này: Nghiên cứu của Vitolo, M. R. ở Brazil (2008), Khin Myat Tun, Han Win (2005) [110].

4.3.2.3. Sự chấp nhận của cộng đồng với biện pháp can thiệp phòng chống NKHHC tại địa điểm nghiên cứu

Kết thúc giai đoạn can thiệp, nhóm nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm các bà mẹ hoặc người chăm sóc trẻ, y tế thôn bản, cán bộ y tế xã, lãnh đạo cộng đồng để: Đánh giá sự chấp nhận của cộng đồng với biện pháp can thiệp được thực hiện tại địa phương, kết quả thu được như sau:

Các biện pháp can thiệp phòng chống NKHHC cho trẻ em dưới 5 tuổi ở huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn được cộng đồng chấp nhận. Qua phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm chúng tôi nhận được sự đồng thuận của cán bộ lãnh đạo cộng đồng, của cán bộ y tế tuyến cơ sở, của chính người dân và đặc biệt là sự chấp nhận của các bà mẹ nuôi con nhỏ. Họ cho rằng, khi tham gia vào chương trình, đã nhận được những hiệu quả thiết thực là kiến thức, thực hành chăm sóc trẻ của bà mẹ được nâng cao. Đối với trẻ: Giảm tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ tái phát và mức độ nặng của bệnh. Điều đó đã thúc đẩy cộng đồng đón nhận và tích cực tham gia. Sự chấp nhận của cộng đồng đối với các biện pháp can thiệp phòng chống bệnh NKHHC cho trẻ được thể hiện ở sự tự nguyện tham gia và sự chuyển giao công nghệ của đề tài cho địa phương, đó chính là tính bền vững của biện pháp can thiệp.


KẾT LUẬN


1. Một số đặc điểm dịch tễ nhiễm khuẩn hô hấp cấp ở trẻ dưới 5 tuổi tại huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn trước can thiệp

- Tỷ lệ nhiễm khuẩn hô hấp cấp của trẻ trước thời điểm can thiệp còn cao, chiếm 43,9 %, nhiễm khuẩn hô hấp trên cấp (36,1 %), nhiễm khuẩn hô hấp dưới cấp (7,8 %).

- Nhóm trẻ từ 36 – 60 tháng có tỷ lệ mắc nhiễm khuẩn hô hấp trên cao nhất (41,0 %), nhóm trẻ từ 2 - < 12 tháng có tỷ lệ mắc nhiễm khuẩn hô hấp dưới cấp cao nhất (11,0 %).

- Tỷ lệ nhiễm khuẩn hô hấp dưới ở trẻ dân tộc HMông (26,3 %) cao hơn trẻ em dân tộc kinh (6,7 %) và cũng cao hơn trẻ em dân tộc Tày (7,0 %), với p < 0,01.

2. Yếu tố liên quan đến nhiễm khuẩn hô hấp dưới cấp

Có nhiều yếu tố liên quan đến nhiễm khuẩn hô hấp dưới của trẻ ở khu vực miền núi: Tiêm chủng không đủ hoặc đủ nhưng không đúng lịch (OR hiệu chỉnh: 10,8). Thực hành chăm sóc trẻ của bà mẹ kém (OR hiệu chỉnh: 4,61). Cai sữa sớm dưới 12 tháng (OR hiệu chỉnh: 4,39). Mẹ thiếu kiến thức chăm sóc trẻ (OR hiệu chỉnh: 3,38). Gia đình có người hút thuốc lá, thuốc lào trong nhà, gần trẻ (OR hiệu chỉnh: 3,29). Chuồng gia súc gần nhà (OR hiệu chỉnh: 2,0). Tình trạng nhà ẩm thấp (OR hiệu chỉnh: 1,85). Bếp đun trong nhà (OR hiệu chỉnh: 1,75).

3. Hiệu quả của biện pháp can thiệp đến nhiễm khuẩn hô hấp cấp tại cộng đồng.

* Kiến thức, thực hành của bà mẹ tốt lên sau can thiệp:

- Kiến thức kém của bà mẹ ở nhóm can thiệp giảm từ 86,7 % (trước can thiệp) xuống còn 6,4 % (sau can thiệp), 77,6 % (đối chứng). Hiệu quả can thiệp đạt mức 86,67 %, với p < 0,01.

- Thực hành kém ở nhóm can thiệp giảm từ 81,3 % (trước can thiệp) xuống còn 14,5 % (sau can thiệp), 76,2 % (đối chứng) với p <0,01. Hiệu quả can thiệp đạt mức 81,38 với p< 0,01.

* Sử dụng dịch vụ y tế hợp lý hơn và tỷ lệ mắc bệnh giảm:

- Số đợt mắc nhiễm khuẩn hô hấp dưới trung bình đến trạm ở các xã can thiệp (0,67 ± 0,26) nhiều hơn so với các xã chứng (0,39 ± 0,35), với p < 0,01.

Xem tất cả 140 trang.

Ngày đăng: 05/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí