Kinh nghiệm phát triển dịch vụ Logistics tại một số nước Asean và bài học đối với Việt Nam - 2


2. Mục tiêu nghiên cứu

Đề tài khoá luận có mục tiêu nghiên cứu:

Tìm hiểu kinh nghiệm phát triển dịch vụ logistics tại các nước ASEAN.

Đưa ra những kiến nghị đối với việc phát triển dịch vụ logistics Việt Nam trên cơ sở bài học kinh nghiệm phát triển dịch vụ logistics tại các nước ASEAN.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề phát triển dịch vụ logistics tại một số nước ASEAN và tại Việt Nam.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn ở việc phân tích vĩ mô thực trạng phát triển dịch vụ logistics tại một số quốc gia Đông Nam Á chủ yếu là Singapore, Malaysia, Thái Lan và tại Việt Nam trong những năm gần đây.

4. Phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở vận dụng phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin, những phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong Khoá luận này bao gồm: phương pháp thu thập & tổng hợp tài liệu, phương pháp diễn giải, quy nạp, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh,…

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

5. Kết cấu khoá luận

Ngoài Lời nói đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo nội dung của Khoá luận chia thành 3 chương như sau:

Kinh nghiệm phát triển dịch vụ Logistics tại một số nước Asean và bài học đối với Việt Nam - 2

Chương I: Tổng quan về dịch vụ logistics

Chương II: Kinh nghiệm phát triển dịch vụ logistics tại một số nước ASEAN

Chương III: Phát triển dịch vụ logistics tại Việt Nam trên cơ sở kinh nghiệm các nước ASEAN

Sau đây là toàn bộ nội dung Khoá luận tốt nghiệp của em.


CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ LOGISTICS‌‌


I. Khái quát chung về logistics

1. Khái niệm logistics

Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự hỗ trợ đắc lực của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới, khối lượng hàng hóa và sản phẩm vật chất được sản xuất ra ngày càng nhiều. Bên cạnh đó khoảng cách trong các lĩnh vực cạnh tranh truyền thống như chất lượng hàng hóa hay giá cả ngày càng thu hẹp khiến các nhà sản xuất chuyển sang cạnh tranh về quản lý hàng tồn kho, tốc độ giao hàng, hợp lý hóa quá trình lưu chuyển nguyên nhiên vật liệu và bán thành phẩm,… trong cả hệ thống quản lý phân phối vật chất của doanh nghiệp. Thực tế đó khiến logistics có cơ hội phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực kinh doanh.

Tuy nhiên logistics được phát minh và ứng dụng lần đầu tiên không phải trong hoạt động thương mại mà là trong lĩnh vực quân sự. Logistics được các quốc gia ứng dụng rộng rãi trong 2 cuộc Đại chiến thế giới để di chuyển lực lượng quân đội cùng với vũ khí có khối lượng lớn và đảm bảo hậu cần cho lực lượng tham chiến. Hiệu quả của hoạt động logistics là yếu tố có tác động rất lớn tới thành bại trên chiến trường.

Trải qua dòng chảy lịch sử, logistics được nghiên cứu và áp dụng sang lĩnh vực kinh doanh. Dưới góc độ doanh nghiệp, thuật ngữ “logistics” thường được hiểu là hoạt động quản trị chuỗi cung ứng (supply chain management) hay quản lý hệ thống phân phối vật chất (physical distribution management) của doanh nghiệp đó. Có rất nhiều khái niệm khác nhau về logistics trên thế giới và được xây dựng căn cứ trên ngành nghề và mục đích nghiên cứu, tuy nhiên, có thể nêu một số khái niệm chủ yếu sau:


Theo Hội đồng quản trị logistics Hoa Kỳ-1988

Logistics là quá trình lên kế hoạch, thực hiện và kiểm soát hiệu quả, tiết kiệm chi phí của dòng lưu chuyển và lưu trữ nguyên vật liệu, hàng tồn, thành phẩm và các thông tin liên quan từ điểm xuất xứ đến điểm tiêu thụ, nhằm thỏa mãn yêu cầu của khách hàng.

Theo giáo sư người Anh Martin Christopher

Logistics là quá trình quản trị chiến lược thu mua, di chuyển và dự trữ nguyên liệu, bán thành phẩm, thành phẩm (và dòng thông tin tương ứng) trong một công ty và qua các kênh phân phối của công ty để tối đa hoá lợi nhuận hiện tại và tương lai thông qua việc hoàn tất các đơn hàng với chi phí thấp nhất.

Theo Quan điểm “5 đúng” (“5 Rights”)

Logistics là quá trình cung cấp đúng sản phẩm đến đúng vị trí, vào đúng thời điểm với điều kiện và chi phí phù hợp cho khách hàng tiêu dùng sản phẩm.

Theo Ma Shuo, tác giả cuốn “Logistics and supply chain management”

Logistics là quá trình tối ưu hoá về vị trí, lưu trữ và chu chuyển các tài nguyên/yếu tố đầu vào từ điểm xuất phát đầu tiên là nhà cung cấp, qua nhà sản xuất, người bán buôn, người bán lẻ, đến tay người tiêu dùng cuối cùng, thông qua hàng loạt các hoạt động kinh tế.

Như vậy, trong nội dung tất cả các tác giả đều cho rằng logistics chính là hoạt động quản lý dòng lưu chuyển của nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thành phẩm và dòng thông tin từ khâu mua sắm qua quá trình lưu kho, sản xuất ra sản phẩm và phân phối tới tay người tiêu dùng. Mục đích giảm tối đa chi phí phát sinh hoặc sẽ phát sinh với một thời gian ngắn nhất trong quá trình vận động của nguyên vật liệu phục vụ sản xuất cũng như phân phối hàng hoá một cách kịp thời (Just-in-Time).


Tóm lại, logistics có thể được hiểu như sau: Logistics là quá trình tối ưu hoá về vị trí và thời gian, vận chuyển và dự trữ nguồn tài nguyên từ điểm đầu tiên của dây chuyền cung ứng cho đến tay người tiêu dùng cuối cùng, thông qua hàng loạt các hoạt động kinh tế.”


2. Quá trình phát triển của logistics

Như đã đề cập, “logistics” là một thuật ngữ quân sự, dùng trong quân đội. Logistics được coi là một nhánh trong nghệ thuật chiến đấu, đó chính là việc vận chuyển và cung cấp lương thực, thực phẩm, trang thiết bị quân dụng đúng nơi, đúng lúc khi cần thiết cho lực lượng chiến đấu. Logistics đã giúp quân đội các nước tham chiến gặt hái được những chiến thắng, đặc biệt là trong chiến tranh thế giới thứ hai.

Xuất phát từ bản chất ưu việt của logistics, sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, các chuyên gia logistics trong quân đội đã áp dụng các kỹ năng logistics của họ trong hoạt động kinh tế thời hậu chiến đáp ứng nhiệm vụ thực tế là tái thiết đất nước sau chiến tranh (đối với các nước Châu Âu) hay trợ giúp tái thiết (đối với nước Mỹ).

Từ những năm 50 của thế kỷ XX đến nay, công nghiệp và thương mại thế giới trải qua những biến đổi sâu sắc từ nền kinh tế dựa trên cơ sở sản xuất hàng loạt, đòi hỏi một lượng hàng lớn đồng nhất sang nền kinh tế mà tính độc đáo và đa dạng của hàng hoá được nhấn mạnh. Trong buôn bán, người bán không nhất thiết là người sản xuất, người mua cũng chưa chắc đã là người tiêu dùng. Quá trình hàng hoá từ tay người sản xuất đến tay người tiêu dùng có thể qua nhiều trung gian lần lượt đóng vai trò là người bán hay người mua và là một bộ phận của toàn bộ quá trình lưu thông hàng hoá. Tính chất phong phú của hàng hoá cùng với sự vận động phức tạp của chúng đòi hỏi phải có một sự quản lý chặt


chẽ điều này đã đặt ra cho các nhà sản xuất kinh doanh một yêu cầu mới. Đồng thời để tránh đọng vốn, các nhà sản xuất kinh doanh luôn tìm cách duy trì một lượng hàng tồn kho nhỏ nhất. Từ những lý do trên yêu cầu hoạt động vận tải giao nhận nói riêng và phân phối nói chung phải đảm bảo cho nguyên liệu hàng hoá được cung ứng kịp thời, đúng lúc (Just-in-Time) mặt khác phải tăng cường vận chuyển với mục tiêu không để hàng trong kho nhằm giảm tối đa chi phí phát sinh trong sản xuất và lưu thông – logistics trong doanh nghiệp đã ra đời.

Nghiên cứu các giai đoạn phát triển của logistics, Uỷ ban kinh tế và xã hội Châu Á – Thái Bình Dương (Economic and Social Commission for Asia and Pacific – ESCAP) của Liên hiệp quốc chia thành 3 giai đoạn như sau:

Giai đoạn 1: Phân phối vật chất (Physical Distribution)

Vào những năm 60, 70 của thế kỷ XX, người ta bắt đầu quan tâm tới việc quản lý có hệ thống những hoạt động có liên quan với nhau để đảm bảo phân phối sản phẩm, hàng hoá cho khách hàng một cách có hiệu quả. Những hoạt động đó bao gồm: vận tải, phân phối, bảo quản hàng hoá, quản lý hàng tồn kho, bao bì đóng gói, phân loại, dán nhãn… Những hoạt động này được gọi là phân phối/cung ứng sản phẩm vật chất hay còn có tên gọi là logistics đầu ra (out bound logistics).

Giai đoạn 2: Hệ thống logistics (Logistics Systems)

Thời kỳ này khoảng những năm 80 – 90 của thế kỷ XX, các công ty tiến hành kết hợp chặt chẽ sự quản lý giữa hai mặt, đầu vào (in bound logistics) với đầu ra (out bound logistics) để giảm tối đa chi phí cũng như tăng thêm hiệu quả của quá trình này. Như vậy sự kết hợp chặt chẽ giữa cung ứng nguyên liệu cho sản xuất với phân phối sản phẩm tới tay người tiêu dùng đã đảm bảo sự ổn định và tính liên tục của các luồng vận chuyển, sự kết hợp này được mô tả là hệ thống logistics.


Giai đoạn 3: Quản lý dây chuyền cung cấp (Supply Chain Management)

Giai đoạn này diễn ra từ những năm 90 của thế kỷ XX cho đến nay. Quản lý dây chuyền cung cấp là khái niệm có tính chiến lược về quản lý dãy nối tiếp các hoạt động từ người cung ứng - đến người sản xuất - đến khách hàng cùng với các dịch vụ làm tăng thêm giá trị của sản phẩm như cung cấp chứng từ liên quan, theo dõi, kiểm tra… Khái niệm này coi trọng việc phát triển các quan hệ với đối tác, kết hợp chặt chẽ giữa người sản xuất với người cung ứng, với người tiêu dùng và các bên có liên quan tới hệ thống quản lý như các công ty vận tải, kho bãi và những người cung cấp công nghệ thông tin.

Như vậy logistics được phát triển từ việc áp dụng các kỹ năng “tiếp vận”, “hậu cần” trong quân đội để giải quyết những vấn đề phát sinh của thực tế sản xuất - kinh doanh và hiện nay được hoàn thiện trở thành hệ thống quản lý mang lại hiệu quả kinh tế cao.


3. Vai trò của logistics

3.1 Vai trò của logistics trong doanh nghiệp

Trong mỗi doanh nghiệp tồn tại ít nhất một trong hai hoạt động chủ đạo đó là tổ chức sản xuất và xây dựng kênh phân phối. Với vai trò hỗ trợ các hoạt động khác trong doanh nghiệp, logistics luôn có mối tương tác chặt chẽ với cả hai hoạt động này. Thiếu logistics, sản xuất cũng như phân phối khó có thể hoạt động trơn chu và hiệu quả.

Trong hoạt động sản xuất, logistics giúp cho doanh nghiệp có thể rút ngắn thời gian hoạt động của dây chuyền sản xuất mà vẫn đạt được hiệu quả kinh tế cao. Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp quan niệm rằng phải khai thác hết công suất của máy móc để đạt mức sản lượng tối đa. Kết quả là họ phải bỏ ra chi phí lưu kho rất cao vì tiêu thụ không hết sản phẩm. Vì vậy, vai trò của logistics ở đây


là bộ phận sử dụng các thông tin nghiên cứu thị trường để giúp doanh nghiệp nhận định được nhu cầu trong từng giai đoạn trước khi bắt tay vào sản xuất, tránh lưu kho nhiều, giảm chi phí vận hành máy móc liên tục.

Vai trò thứ hai của logistics là giúp các doanh nghiệp đảm bảo nguồn nguyên liệu đầu vào tuân thủ kế hoạch sản xuất và đặc biệt tránh tình trạng sản xuất bị gián đoạn. Nhà quản trị logistics sẽ khó khăn hơn khi trong dây chuyền sản xuất của doanh nghiệp sử dụng các nguyên liệu mang tính thời vụ hoặc doanh nghiệp là nhà sản xuất, lắp ráp thành phẩm cuối cùng trong một chuỗi nối tiếp các hoạt động sản xuất. Đối với doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu mang tính thời vụ, ví dụ như các công ty chế biến lương thực thực phẩm, khi nguyên vật liệu không thể lưu kho trong thời gian dài nhà quản trị logistics cần tìm ra nguồn nguyên liệu thay thế, có thể phải chấp nhận nhập khẩu nguyên liệu. Đối với các công ty hoạt động trong chuỗi sản xuất, ví dụ ngành sản xuất ô tô, logistics thực hiện chức năng liên lạc với các đơn vị đồng sản xuất đảm bảo hợp tác sản xuất hiệu quả không bị gián đoạn.

Bên cạnh hoạt động sản xuất, logistics hỗ trợ đắc lực cho hoạt động marketing đặc biệt là marketing hỗn hợp. Trong quá trình xây dựng chính sách marketing, nhà quản lý phải biết đâu là thị trường của doanh nghiệp, thực hiện các dịch vụ khách hàng như thế nào để đem lại hiệu quả từ đó có thể xác lập một kênh phân phối có thể tối đa lượng hàng hoá bán ra với mức giá hợp lý. Logistics giúp doanh nghiệp dự đoán chính xác nhu cầu của thị trường, có vai trò quan trọng trong quá trình khách hàng tiếp cận, tin tưởng và chấp nhận sản phẩm.

3.2 Vai trò của logistics đối với nền kinh tế

Logistics là một hoạt động tổng hợp mang tính dây chuyền, hiệu quả của quá trình này có tầm quan trọng quyết định đến tính cạnh tranh của ngành công


nghiệp và thương mại mỗi quốc gia. Logistics đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thể hiển trên nhiều phương diện.

Thứ nhất, logistics là một trong các chi phí lớn trong kinh doanh, tác động qua lại với nhiều hoạt động kinh tế khác. Đối với những nước phát triển như Nhật và Mỹ logistics đóng góp khoảng 10% GDP. Đối với những nước kém phát triển thì tỷ lệ này có thể hơn 30%. Chi phí sản xuất kinh doanh lớn khiến người tiêu dùng phải mua hàng hoá, dịch vụ với mức giá cao còn lợi nhuận của doanh nghiệp giảm sút. Nếu chi phí cho hoạt động logistics tăng cao trong một thời gian dài thì có thể kéo theo sự phát triển thụt lùi của toàn bộ nền kinh tế, chất lượng cuộc sống của người dân suy giảm và ngân sách nhà nước được hình thành chủ yếu từ khoản thu thuế cũng bị ảnh hưởng. Như vậy, logistics phát triển tốt sẽ không chỉ mang lại khả năng tiết giảm thời gian, chi phí và nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ mà logistics còn là một động lực quan trọng thúc đầy nền kinh tế phát triển.

Thứ hai, logistics đóng vai trò là nhân tố hỗ trợ cho dòng lưu chuyển của nhiều giao dịch trong nền kinh tế, nó đồng thời cũng là một hoạt động quan trọng tạo thuận lợi cho việc kinh doanh hầu hết các loại hàng hóa, dịch vụ.

Thứ ba, logistics là công cụ hữu hiệu nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và hội nhập với thế giới. Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế hiện nay, khoảng cách thời gian và không gian giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng không dừng lại trong phạm vi từng quốc gia hay từng khu vực mà ngày càng mở rộng trên phạm vi toàn cầu. Trong môi trường toàn cầu cạnh tranh gay gắt, các nhà sản xuất kinh doanh phải tiến hành tiết kiệm chi phí sản xuất tối đa, hạ giá thành sản phẩm, rút ngắn thời gian giao hàng, tăng cường khả năng cung ứng v.v…Muốn đạt được các mục tiêu đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải áp dụng công nghệ logistics.

Xem tất cả 112 trang.

Ngày đăng: 05/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí