Đông Bắc Là Một Trong Những Vùng Giàu Tài Nguyên Khoáng Sản :


các khu vực lân cận cùng phát triển thông qua sự phát triển có tính chất lan toả.

3. Về Tây Âu và Bắc Mỹ

Có thể nhận thấy rằng hầu hết các quốc gia có sử dụng các loại hình kinh tế này đều nhận thấy vai trò to lớn của nó trong thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hóa nhờ tính đặc thù về cơ chế, chính sách của từng mô hình kinh tế. Mức độ ảnh hưởng và phạm vi tác động thường tỉ lệ thuận với quy mô phát triển của từng loại mô hình này về giá trị, tỉ trọng đóng góp trong GDP cũng như hiệu quả toàn diện về mặt kinh tế - xã hội do phát triển các loại hình kinh tế này mang lại. Sự tác động của các khu kinh tế cửa khẩu tới việc phát triển kinh tế có được là nhờ các chức năng đặc thù về ưu đãi xuất, nhập khẩu, các cơ chế chính sách khuyến khích về công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, du lịch. phát triển các loại hình này cũng đồng nghĩa với việc thúc đẩy xuất, nhập khẩu công nghiệp, nông nghiệp, du lịch và dịch vụ phát triển, đây là cơ sở kinh tế hàng hóa trong nước phát triển.

Hình thức quan hệ thương mại qua biên giới đã được một số nước sử dụng thành công. Ở Bắc Mỹ, lợi dụng những những điểm khác biệt về chế độ thuế giữa Mỹ và Canada, Mỹ đã chủ động mở nhiều điểm bán hàng giữa biên giới hai nước, khai thác những điểm hạn chế về thuế quan để thu lợi cho mình. Hơn nữa, trong quan hệ hai nước, Mỹ và Canada đã phối hợp xây dựng hàng loạt các xí nghiệp gia công, chế tác theo hình thức liên doanh trên tuyến biên giới. Một số nước khác cũng sử dụng hình thức này, như quan hệ Mêhicô và Mỹ, với nhiều thị trường tự do được xây dựng, trong đó có những ưu đãi về cơ chế chính sách, thuế và mậu dịch, tạo điều kiện thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại qua cửa khẩu biên giới.

Đối với các nước Tây Âu, có đặc điểm về lãnh thổ là các nước tiếp giáp nhau có khoảng cách qua lại gần. Trên cơ sở những chính sách chung của khối EEC, nhiều quốc gia đã xây dựng những chính sách nhằm phối hợpchặt chẽ hơn về kinh tế và thương mại. Năm 1992, theo thống kê của


Cộng đồng chung châu Âu, kim ngạch buôn bán biên giới tăng 550 tỉ mác Đức so với năm 1980. Nước Pháp, một nền kinh tế phát triển mạnh ở châu Âu cũng chủ trương khai thác những thế mạnh trên các tuyến biên giới trong trao đổi kinh tế - thương mại. Pháp đã xây dựng nhiều khu kinh tế mở ở biên giới phía Đông, biến khu vực này trở thành trung tâm kinh tế phát triển.


Phần II THỰC TRẠNG VỀ CÁC KHU KINH TẾ CỬA KHẨU VÙNG ĐÔNG BẮC

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.


I. Tổng quan chung về vùng Đông Bắc

Khu kinh tế cửa khẩu và tác động của nó đối với việc phát triển vùng Đông Bắc - 4

1. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên

1.1 Vị trí địa lý, địa hình khí hậu :

Vùng Đông Bắc tiếp giáp với Đồng Bằng Sông Hồng, Tây Bắc, biển Đông và Trung Quốc. Đây là một vị trí hết sức thuận lợi trong việc đẩy mạnh giao lưu kinh tế giữa các vùng và đặc biệt là nước láng giềng Trung Quốc. Việc tiếp giáp với Đồng Bằng Sông Hồng và có một lãnh thổ


gắn với vùng phát triển kinh tế trọng điểm Bắc Bộ với những trung tâm đô thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng đã cho thấy tiềm năng rất lớn của vùng sau này. Dự báo đến năm 2010 dân số Trung Quốc vào khoảng 1,3 tỷ người sẽ có nhiều khả năng trở thành cường quốc kinh tế của thế giới. Khu vực Đông, Đông Nam Trung Quốc đang phát triển vào loại nhanh nhất khu vực. Trong đó Quảng Đông và một phần vùng ven biển Quảng Tây, đảo Hải Nam đang bứt lên với tốc độ nhanh. Việc Hồng Kông đã được sát nhập trở lại với Trung Quốc và Ma Cao cũng đã được trả lại về Trung Quốc sẽ tạo ra một dải ven biển phát triển hùng hậu, sẽ có những ảnh hưởng lớn từ phía này đối với quá trình đi lên của Đông Bắc. Lúc đó, Đông Bắc bị cuốn vào quá trình phát triển, hợp tác và đứng trước những cơ hội và thách thức lớn.

Vùng Đông Bắc của Việt Nam có địa hình chia cắt phức tạp, ở phía Tây có những dãy núi chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, đặc biêt dãy Hoàng Liên Sơn có đỉnh núi Fanxipăng cao hơn 3000 m, chia cắt Tây Bắc với Đông Bắc Bắc Bộ. Ở phía Đông của Đông Bắc có nhiều dãy núi cao hình cánh cung tạo nên địa hình hiểm trở. Đông Bắc tuy vẫn nằm ở vùng khí hậu nhiệt đới, nhưng chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc và khí hậu phân dị tạo ra nhiều tiểu vùng sinh thái cho phép phát triển nhiều loại cây trồng, vật nuôi đa dạng phong phú, trong đó có những loại đặc sản có giá trị kinh tế cao.

Chính sự độc đáo về vị trí địa lý kinh tế của vùng Đông Bắc mà các tỉnh tính toán và lựa chon cần xem xét hết các vấn đề khai thác các yếu tố tự nhiên để phát triển nền nông, lâm nghiệp sinh thái nhiệt đới bền vững.

1.2 Đông Bắc là một trong những vùng giàu tài nguyên khoáng sản :

Có thể nói rằng tài nguyên khoáng sản của vùng thuộc loại bậc nhất nước ta hiện nay với những loại tài nguyên khoáng sản có ý nghĩa quan trọng đối với quốc gia như : than, apatít, sắt, đồng, chì, kẽm, thiếc,v…v… là những tài nguyên quan trọng để phát triển công nghiệp khai khoáng.


Đông Bắc có vùng than Quảng Ninh lớn nhất nước ta với chủ yếu là antraxit chất lượng tốt. Nếu tính đến độ sâu 300 m thì vùng này có trữ lượng than thăm dò tới khoảng 3,5 tỷ tấn trong đó mỏ lộ thiên khoảng 195 triệu tấn. Ngoài than Quảng Ninh còn có than lửa dài tập trung ở Na Dương, Thái Nguyên với trữ lượng khá.

Đông Bắc là vùng duy nhất ở nước ta có mỏ apatít với trữ lượng lớn và tập trung. Tổng trữ lượng dự báo khoảng 2,1 tỷ tấn, đủ đáp ứng cho nhu cầu sản xuất phân lân phục vụ phát triển nông nghiệp ở nước ta và có thể dành để xuất khẩu một phần.

Đồng chì kẽm là những loại khoáng sản tuy không lớn nhưng tập trung chủ yếu ở vùng Đông Bắc. Nếu được đầu tư khai thác tốt, với trữ lượng tuy không lớn nhưng có thể đáp ứng một phần quan trọng nhu cầu trong nước.

Thiếc tập trung lớn ở tỉnh Tĩnh Túc (Cao Bằng), Sơn Dương (Tuyên Quang). Một số điểm quặng nằm rải rác ở các địa phương. Cần nâng cao chất lượng khai thác và tuyển, luyện, nâng cao mức độ sạch của thiếc, kim loại quí như đồng, vonphram, titan…

Ngoài ra, Đông Bắc còn có các loại khoáng sản như pirit, sắt, vàng đá quí, đất hiếm, đá granit, đá xây dựng, đá vôi xi măng, nước khoáng v..v… Đây cũng là những loại khoáng sản có tiềm năng, là thế mạnh để phát triển công nghiệp khai khoáng và chế biến khoáng sản của Đông Bắc và cả nước.

1.3 Tài nguyên du lịch đặc sắc

Vùng Đông Bắc có tiềm năng du lịch rất phong phú, đa dạng và có sức hấp dẫn chẳng những với du khách trong nước, mà còn với khác du lịch nước ngoài. Có khả năng tiếp nhận lớn khách du lịch và đáp ứng các yêu cầu của nhiều loại hình du lịch với các đối tượng khác nhau.

Về mặt tự nhiên, vùng này có rất nhiều cảnh đẹp. Cảnh thiên nhiên núi rừng hùng vĩ, biển thơ mông, đặc biệt có Vịnh Hạ Long ( Quảng Ninh)


một danh thắng nổi tiếng thế giới. Khách du lịch tới đây sẽ bị lôi cuốn trước vẻ đẹp của tạo hóa, kỳ thú của một thế giới đảo đá vôi muôn hình muôn vẻ, nửa nổi, nửa chìm trong vịnh biển. Bãi biển Trà Cổ dài, thoải, nước trong và quanh năm lộng gió. Đồng thời có nhiều cảnh quan hấp dẫn như hồ Thác Bà, hồ Ba Bể, hồ Núi Cốc…. Thác nước Bản Dốc, Đầu Đẳng và núi Các Mác, suối Lê Nin và các cánh rừng già nguyên sinh như khu rừng cấm Tam Đảo với hệ sinh thái rừng nhiệt đới làm thoả mãn trí tò mò của các du khách với lòng say mê nghiên cứu của các nhà khoa học.

Về mặt văn hoá lịch sử, vùng này phản ánh bề dày lịch sử Việt Nam. Những di tích khảo cổ học chứng minh cho nền văn hoá Đông Sơn, Hạ Long nổi tiếng từ hồi tiền sử, những di tích lịch sử qua các triều đại của nước ta còn được bảo toàn hoặc phục hồi như khu rừng Trần Hưng Đạo,khu Cao Bằng Pắc Pó và nhiều danh thắng lịch sử khác rất có giá trị về khoa học và giáo dục truyền thống, truyền bá kiến thức. Bên cạnh đó với những lễ hội truyền thống như Hội Đền Hùng, Hội Lim… mang đậm đà bản sắc dân tộc đã tạo ra điều kiện thuận lợi cho khách du lịch, thăm quan, tìm hiểu và nghiên cứu.

2. Dân số và nguồn nhân lực

Vùng Đông Bắc có số dân khoảng 12,9 triệu người vào năm 2004 chiếm 14,5% dân số cả nước. Dân số của vùng tăng nhanh nhưng nhịp độ tăng dân số đã có xu hướng giảm dần, tuy nhiên mức sinh của dân số vùng Đông Bắc còn cao hơn so với trung bình của cả nước và các vùng khác.

Vùng Đông Bắc có cơ cấu dân tộc đa dạng nhất trong cả nước với 40 dân tộc anh em cùng sinh sống. Các dân tộc ít người sống tập trung trên những địa bàn nhất định thuận lợi cho việc thực hiện chính sách và tổ chức cuộc sống phù hợp với đặc điểm tập quán, lối sống và trình độ vủa mỗi dân tộc, nhưng cũng khó khăn trong việc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào đời sống vì trình độ dân trí của đồng bào quá thấp.


Trình độ học vấn và chuyên môn khoa học kỹ thuật trung bình của dân cư nguồn nhân lực ở Đông Bắc khá cao tương đương với trình độ trung bình của cả nước. Có đến 53,7% tổng số nguồn nhân lực đã tốt nghiệp PTCS trở lên cao hơn mức trung bình của cả nước. Tuy nhiên còn có một tỉ lệ không nhỏ nguồn nhân lực không biết chữ và chưa tốt nghiệp PTCS chủ yếu là các đồng bào các dân tộc ít người.

Trong vùng có một số khu tập trung công nghiệp với lịch sử hình thành hàng chục năm nên có đội ngũ chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ khá đông đảo. Toàn vùng có trên 60 vạn người đã qua đào tạo, chiếm 12% tổng số lao động tương đương với trình độ trung bình của cả nước trong đó có trên 8 vạn người có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên. Tuy nhiên lại có sự chênh lệch lớn về trình độ học vấn và chuyên môn khoa học kỹ thuật của nguồn nhân lực giữa các tỉnh trong vùng. Và có sự khác biệt lớn về trình độ học vấn giữa các dân tộc, đặc biệt là người Dao, người Hmông có tỉ lệ trẻ em 5-19 tuổi đi học là rất thấp trong khi tỉ lệ mù chữ lại rất cao.

Cơ cấu phân công lao động xã hội của vùng còn rất lạc hậu, khu vực nông lâm nghiệp chiếm tỉ trọng cao, trình độ trang thiết bị kĩ thuật của người lao động còn thấp kém nên không đủ sức khai thác các thế mạnh của vùng, năng suất lao động rất thấp chỉ bằng 65% mức bình quân chung của cả nước. Ngoài ra Đông Bắc có tỷ lệ dân số đô thị thấp và không đồng đều giữa các tỉnh.

3. Đánh giá khái quát về thực trạng kinh tế – Xã hội vùng Đông Bắc

Trong những năm gần đây nền kinh tế của vùng Đông Bắc đã có những nét khởi sắc đặc biệt ở một số tỉnh thực hiện mô hình khu kinh tế cửa khẩu được áp dụng một số các chính sách ưu đãi. Đời sống nhân dân được cải thiện một cách nhanh chóng, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội cơ bản được giữ vững. Tuy nhiên nền kinh tế vùng Đông Bắc còn tồn tại nhiều mặt yếu kém cần được giải quyết và khắc phục.


Điểm xuất phát còn đang ở mức thấp. Tổng GDP toàn vùng hiện chỉ bằng khoảng 7,5% so với cả nước. Nhịp độ tăng trưởng GDP thấp kéo dài trong nhiều năm. Từ năm 1991 đến 1994 nhịp độ tăng trưởng GDP đạt khoảng 5,9% năm là thấp so với cả nước (7,9% năm). Từ 1994 đến nay nhịp độ tăng trưởng GDP đạt 6,7%, nhịp độ tăng trưởng đã cao hơn rất nhiều nhưng vẫn ở mức thấp hơn so với cả nước. Trong khi đó dân số vẫn tăng khoảng 2% nên GDP bình quân đang ở mức thấp hơn so với mức trung bình của cả nước. Tỉ suất hàng hoá thấp, sản phẩm hàng hoá còn ít cả về chủng loại và khối lượng, hầu hết là những sản phẩm hàng hoá thông thường, chất lượng không cao và khả năng cạnh tranh của nhiều sản phẩm còn kém. Tuy nhiên có những sản phẩm hàng hoá chiếm tỉ trọng lớn trong cả nước như chè, hồi, quế, sơn, than, apatít và phân lân, giấy.

GDP bình quân đầu người đă thấp nhưng lại không đồng đều giữa các khu vực và tầng lớp dân cư. GDP/người của nhân khẩu nông nghiệp chỉ bằng khoảng 62% mức trung bình của toàn vùng.

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm, nông- lâm nghiệp còn chiếm tỉ trọng lớn. Công nghiệp tuy có những nơi được phát triển sớm, chủ yếu là công nghiệp khai khoáng và chế biến nông- lâm sản, nhưng nhìn chung ở phần lớn lãnh thổ của Đông Bắc công nghiệp chưa phát triển. Năm 2004 công nghiệp mới thu hút 10,5% lao động xã hội và đóng góp 18% GDP của vùng. Trình độ trang thiết bị kỹ thuật thấp, sản phẩm công nghiệp mới còn ít, chất lượng còn chưa cao nên mặc dù có ý nghĩa quan trọng đối với đóng góp thu ngân sách Nhà nước nhưng vai trò công nghiệp chưa lớn, nhất là chưa khai thác các tiềm năng về thị trường, về khoáng sản cũng như lợi thế khác biệt của vùng để phát triển kinh tế.

Các ngành dịch vụ nhất là dịch vụ ở khu vục nông thôn chưa phát triển và hiệu quả thấp. Du lịch có tiềm năng lớn nhưng phát triển chậm và còn nặng về khai thác tự nhiên cho nên hiệu quả thấp. Thương nghiệp nhất là thương mại biên giới có phát triển khá hơn nhưng vẫn còn nhỏ bé.


Thương nghiệp hoạt động chưa rộng khắp, giao lưu kinh tế còn hạn chế, nhiều khu vực ở Đông Bắc đang thiếu vắng dịch vụ thương nghiệp.

Ngoài ra, do vùng Đông Bắc là vùng đồi núi có địa hình cao so với mặt nước biển và bị chia cắt bởi nhiều dãy núi và sông suối đồng thời điều kiện khí hậu phân dị, chính điều này đã tác động làm cho phát triển theo lãnh thổ có sự chênh lệch lớn. Do đó sẽ tạo ra sự phức tạp trong quản lý và việc phát triển cơ sở hạ tầng cũng gặp nhiều khó khăn.

II. Các nhân tố tác động đến sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu

1. Nhân tố tự nhiên và trình độ phát triển kinh tế-xã hội

1.1 Vị trí địa lý

Việc lựa chọn xây dựng các khu kinh tế cửa khẩu, trước hết căn cứ vào điều kiện tự nhiên xã hội, đó phải là những nơi có thuận lợi về vị trí, Phù hợp với giao lưu kinh tế – thương mại biên giới, là cầu nối giữa kinh tế trong nước với kinh tế nước ngoài. Các cửa khẩu nằm trên vùng Đông Bắc ở những vị trí tương đối thuận lợi, các khu kinh tế cửa khẩu thường nằm ở các thị trấn, thị tứ và đầu mối giao thông như quốc lộ 1A dài 168 km từ Hà Nội đến Hữu Nghị, đường sắt Côn Minh – Lào Cai… Đây được coi là những yếu tố hết sức quan trọng cho sự tồn tại và phát triển lâu dài của khu kinh tế cửa khẩu. Bởi vì, do đặc điểm của nó, hoạt động thương mại- dịch vụ là một trong những nội dung cơ bản trong sự phát triển của khu kinh tế cửa khẩu, muốn vậy phải có nguồn hàng hóa, dịch vụ từ nội địa được vận chuyển đến để trao đổi qua cửa khẩu biên giới đồng thời phải có hệ thống giao thông thuận lợi để đưa hàng hóa nhập khẩu từ bên ngoài vào trong nước. Hơn nữa, do nhiều nét tương đồng về khí hậu, môi trường sinh thái, trình độ phát triển, cho nên đòi hỏi phải có các chủng loại hàng hóa đáp ứng được nhu cầu trao đổi, có loại được sản xuất tại chỗ, có loại được khai thác trong nội địa theo nguyên tắc xuất những hàng hóa mà thị trường bạn cần mà ta có lợi thế và nhập những hàng hóa chúng ta chưa có khả năng

Xem tất cả 104 trang.

Ngày đăng: 01/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí