2004 tổng số khách du lịch đạt 3,34 triệu lượt khách tăng trên 20% so với năm 2003.
- Thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước: Trên địa bàn khu cửa khẩu Móng Cái hiện có trên 10 dự án được cấp phép với tổng số vốn đầu tư 80 triệu USD. Trong đó có 2 dự án được cấp phép từ trước, và trên 7 dự án được cấp phép sau Quyết định 675-TTg. Bên cạnh đó, hiện còn 2 dự án đã hoàn thành hồ sơ đang chờ cấp phép,trong đó có một dự án xin bổ sung ngành nghề kinh doanh và tăng vốn đầu tư với tổng số vốn dự kiến lên đến 30 triệu USD. Ngoài ra, còn có hàng chục doanh nghiệp trong nước (chủ yếu đó là các doanh nghiệp từ thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội) đang làm thủ tục thuê đất để chuẩn bị kinh doanh.
- Xây dựng cơ sở hạ tầng: Từ khi được áp dụng cơ chế thí điểm bằng nguồn vốn được đầu tư riêng qua ngân sách tỉnh, đến 12/1998 đã tập trung xây dựng 56 dự án phát triển khu vực cửa khẩu Móng Cái với tổng số vốn 201 tỷ đồng. Chủ yếu đầu tư vào các ngành giao thông, điện, cấp thoát nước, và các công trình phúc lợi xã hội khác. Đã đưa vào sử dụng 10 cầu trên quốc lộ 18A (Móng Cái-Tiên Yên), 2 bến cảng, 1 bến xe, 55 km đường bộ: 173 km đường dây cáp 0,4 KV, và 125 trạm biến áp các loại, 83 km đường dây tải 22 KV, cấp điện cho sản xuất kinh doanh và sinh hoạt ở khu vực cửa khẩu. Một nhà máy cấp nuớc công suất 5.400m2/ngày, một hệ thống cấp nước cho cư dân thị xã, một hệ thống thoát nước 24 km, đã được đưa vào sử dụng. Xây dựng mới 60 phòng học cho các trường phổ thông và 1 nhà trẻ (300 cháu), nâng cấp bệnh viện đa khoa; Xây mới 5000 m2 nhà cấp 2- cấp 3 cho các cơ quan chính quyền và các cơ quan quản lý khu cửa khẩu.
- Về mặt xã hội: từ một khu vực nghèo của một huyện miền núi biên giới, với kinh tế nông nghiệp, tự cấp tự túc là chủ yếu, Móng Cái nay đã biến thành một khu vực phát triển mạnh, với cơ cấu kinh tế hoàn toàn thay đổi. Móng Cái đã trở thành một khu đô thị có tốc độ phát triển nhanh,
hạ tầng cơ sở tăng nhiều. Đời sống của dân chúng được cải thiện rò rệt, nhất là về các điều kiện vật chất: thu nhập bình quân đầu người đã tăng từ 360 USD lên 472 USD vào năm 2002. Tỷ lệ người nghèo giảm từ 17% xuống còn 11%.
Chúng ta có thể khẳng định rằng Móng Cái là một trong những cửa khẩu quốc tế quan trọng nhất trên biên giới phía Bắc Việt Nam trong việc giao lưu với Trung Quốc và các nước khác trong khu vực. Đặc biệt, Móng Cái tiếp giáp với thị xã Đông Hưng là khu kinh tế mở của tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Khu kinh tế này đang được xây dựng thành một thành phố lớn, hiện đại, đa chức năng và được xác định là cửa ngò để Trung Quốc đi vào thị trường Đông Nam Á.
Móng Cái có hệ thống đường bộ, đường biển giao lưu trong nước và quốc tế thuận lợi. Vùng ven biển có thể xây dựng các cảng nhỏ, (cả cảng du lịch và cảng thương mại) Mũi Ngọc, Thọ Xuân. Đặc biệt cảng Vạn Gia là cảng chuyển tải xuất nhập khẩu giữa hai nước Việt-Trung qua khu vực này.
Móng Cái đã có 1 sân bay nhỏ có thể nâng cấp để phục vụ việc đi lại bằng hàng không. Nhiều công trình hạ tầng quan trọng như hệ thống thông tin viễn thông, lưới điện 110 kv, đường 18A nối với thành phố Hạ Long, cảng biển Vạn Gia, chợ, khách sạn, trung tâm hội chợ triển lãm, công viên.. đã được đầu tư nâng cấp.
Có thể bạn quan tâm!
- Đông Bắc Là Một Trong Những Vùng Giàu Tài Nguyên Khoáng Sản :
- Bầu Không Khí Chính Trị Của Các Nước Trong Khu Vực Và Trực Tiếp Là Quan Hệ Hữu Nghị Thân Thiên Giữa Việt Nam Và Trung Quốc
- Quá Trình Hình Thành Các Khu Kinh Tế Cửa Khẩu Vùng Đông Bắc.
- Đánh Giá Chung Về Các Khu Kinh Tế Cửa Khẩu Vùng Đông Bắc
- Quan Điểm Của Đảng Và Nhà Nước Cề Phát Triển Các Kinh Tế Cửa Khẩu Vùng Đông Bắc
- Phương Hướng Và Mục Tiêu Phát Triển Các Khu Kinh Tế Cửa Khẩu Vùng
Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.
Móng Cái có bãi biển Trà Cổ nổi tiếng với bãi cát phẳng, chạy dài 17km. Khu du lịch Trà Cổ, Vĩnh Thực gắn với quần thể du lịch Hạ Long- Bái Tử Long càng tạo ra sức hấp dẫn mạnh mẽ. Trong quy hoạch tổng thể phát triển khu vực Móng Cái được phân thành 3 chức năng: khu thương mại quốc tế, khu du lịch và khu công nghiệp.
Với những lợi thế của mình, Móng Cái là khu vực cửa khẩu giàu tiềm năng. Nhằm đưa Móng Cái thành địa bàn có sức thu hút nhà đầu tư, doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Mặc dù có những mặt tích cực nêu trên thì còn có nhiều tồn tại hạn chế Quyết định 675-TTg và 103-TTg áp dụng vào Móng Cái còn rất hạn hẹp, không đồng bộ, mặt khác Nghị định số 57/CP ngày 31/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ và các Nghị định, thông tư giảm thuế để khuyến khích xuất khẩu và đầu tư thì Quyết định 675-TTg và 103-TTg chính sách ưu đãi không còn nữa nên chưa tạo ra bước phát triển nhanh, mạnh ,vững chắc ở khu vực Móng Cái về các lĩnh vực, đặc biệt về kinh tế và lợi thế của cửa khẩu Móng Cái về thương mại – xuất nhập khẩu, du lcịh, dịch vụ, cảng biển.. chưa được nhiều mặt. Mặt khác, mấy năm qua, Trung Quốc đã tập trung xây dựng khu khai phát Đông Hưng (tiếp giáp với Móng Cái) thành một khu kinh tế cửa khẩu phát triển với cơ chế chính sách ữu đãi đặc biệt là đối tựợng hợp tác cạnh tranh trực tiếp về phát triển kinh tế – xã hội đối với thị xã Móng Cái của ta.
2.1.2. Khu kinh tế cửa khẩu Lạng Sơn
Lạng Sơn có 2 cửa khẩu quốc tế là cửa khẩu đường sắt Đồng Đăng và cửa khẩu đường bộ Hữu Nghị; có 2 cửa khẩu quốc gia là Chi Ma (huyện Lộc Bình), Bình Nghi (huyện Tràng Định), cửa khẩu Tân Thanh và 7 cặp chợ biên giới với Trung Quốc. Lạng Sơn có 10 huyện và 1 thành phố, 266 xã, phường, thị trấn.
Ngày 11/9/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định 748/TTg cho phép áp dụng thí điểm một số cơ chế chính sách mới tại khu vực các cửa khẩu biên giới giữa Lạng Sơn và Trung Quốc. Việc triển khai thực hiện Quyết định của Thủ tướng đã được tỉnh xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, nên đã tập trung lực lượng để thực hiện. Sau một thời gian thực hiện, đã đạt được một số kết quả ban đầu:
- Về xuất nhập cảnh (XNC) và du lịch: UBND Tỉnh đã cùng với các ngành hữu quan thống nhất công tác quản lý XNC và hoạt động của người nước ngoài trên địa bàn thông qua các Quyết định số 314 UB QĐ ngày 11/3/1998 của UBND tỉnh về việc ban hành “Qui định tạm thời về XNC tại
khu vực Đồng Đăng, Hữu Nghị, Tân Thanh” và “Qui chế phối hợp tạm thời quản lý khách XNC qua ba cửa khẩu và quản lý hoạt động của người nước ngoài trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn” : Hướng dẫn người Trung Quốc và người nước ngoài khác nhập cảnh và tạm trú tại khu vực thí điểm; cấp giấy phép cho người Trung Quốc vào các địa điểm khác trong tỉnh; Cấp giấy thông hành cho người Việt Nam sang huyện biên giới của Trung Quốc; quản lý người qua lại các cặp chợ tại khu vực cửa khẩu Tân Thanh. Quyết định số 468/UB ngày 18/4/1998 của UBND tỉnh qui định việc thu và sử dụng phụ phí du lịch để đầu tư phát triển du lịch trên địa bàn; chỉ định Công ty Du lịch- XNC làm đầu mối đưa đón khách bằng thẻ du lịch, vv... Hoạt động du lịch tăng nhanh, bình quân tăng từ 13-18%/năm về lượng khách. Doanh thu du lịch tăng khá, bình quân 15%/năm, lượng khách du lịch năm 2000 đến Lạng Sơn trên 180.00 lượt người, trong đó riêng khách quốc tế đã lên đến hơn 60.000 lượt người. Năm 2004 lượng khách du lịch đến Lạng Sơn ước đạt khoảng 301.800 người đây là một con số đáng khích lệ. Kể từ khi Quyết định số 53/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành vào ngày 19/4/2001 đã tạo đà cho sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu Lạng Sơn ngày một mạnh mẽ hơn.
- Về thương mại- xuất nhập khẩu (XNK): Công tác xuất nhập khẩu đã có sự tăng trưởng khá, đến nay đã có hơn 350 doanh nghiệp trong cả nước tham gia hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu qua khu vực cửa khẩu biên giới của Lạng Sơn trong khi năm 1996 có 240 doanh nghiệp trong cả nước thực hiện xuất nhập khẩu qua Lạng Sơn, năm 1998 là 268 và năm 1999 là 300 doanh nghiệp. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 4 năm đạt 1.400 triệu USD. Điều đáng chú ý là hoạt động ngoại thương qua khu vực cửa khẩu Lạng Sơn luôn suất siêu, các sản phẩm thuộc nhóm hàng nông-lâm hải sản, thủ công mỹ nghệ.. là chủ yếu, tạo điều kiện cho sản xuất chế biến phát triển (năm 1997: tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 303 triệu USD, trong đó xuất khẩu đạt 205 triệu USD, năm 2000: tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
đạt xấp xỉ 700 triệu USD, trong đó xuất khẩu đạt gần 500 triệu USD). Năm 2004 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt khoảng 1421 triệu USD. Một số doanh nghiệp trong nước đã có sự liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp ở Lạng Sơn để tổ chức sản xuất vùng nguyên liệu, chế biến sản phẩm tại nơi sản xuất, nhằm nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu, tạo được công ăn việc làm cho nhiều lao động… Để tạo đà cho việc thúc đẩy hoạt động thương mại Lạng Sơn đã khai trương phòng quản lý xuất nhập khẩu theo Quyết định số 0679/QĐ-BTM ngày 1/6/2004 của Bộ thương mại. Phòng quản lý xuất nhập khẩu khu vực Lạng Sơn thực hiện cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá mẫu E tại thành phố Lạng Sơn cho các doanh nghiệp và thương nhân trong và ngoài tỉnh xuất khẩu hàng hoá nông sản, trái cây Việt Nam sang thị trường Trung Quốc qua các cửa khẩu của Lạng Sơn và toàn quốc từ 01/02/2005.
- Về hoạt động đầu tư: Cho tới năm 2004 có trên 10 dự án đầu tư đã và đang triển khai tại khu kinh tế cửa khẩu với tổng số vốn lên đến hàng trăm tỉ đồng, trong đó là phần lớn là các dự án đầu tư nước ngoài. Hiện nay tại Tân Thanh có hàng chục đơn vị trong nước đã đăng kí thuê đất đầu tư và một số đơn vị của Việt Nam đã và đang làm thủ tục liên doanh với các công ty nước ngoài vốn đầu tư trên 15 triệu USD. Số vốn đầu tư nước ngoài vào khu vực cửa khẩu tuy còn nhỏ bé nhưng đã nói lên sự hấp dẫn của khu kinh tế cửa khẩu này, vì thời gian xây dựng chưa nhiều và còn nhiều việc đang tiếp tục triển khai. Công tác tổ chức thu ngân sách đã có nhiều tiến bộ, tăng trưởng khá hơn, thường năm sau cao hơn năm trước, và vượt chỉ tiêu kế hoạch trên giao. Từ đó có nguồn để đầu tư trở lại cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, dịch vụ phục vụ cho công tác xuất nhập khẩu và các hoạt động thương mại trên địa bàn. Trong hơn sáu năm tính từ khi thành lập khu kinh tế cửa khẩu, tổng số vốn được đầu tư trở lại cho khu kinh tế cửa khẩu hơn 1000 tỷ đồng.
- Về xây dựng cơ sở hạ tầng: Cho đến tháng 1 năm 2000, đã triển khai thực hiện giá trị khối lượng hoàn thành là 150,830 tỷ đồng; đã bàn giao đưa vào sử dụng 54 dự án được phê duyệt với tổng đầu tư là 292,201 tỷ đồng. Trong đó, dự án giao thông có 15 hạng mục với số vốn 138,6 tỷ đồng; dự án điện nước có 10 hạng mục với số vốn 36,4 tỷ đồng; dự án giáo dục y tế có 5 hạng mục, với số vốn 24,8 tỷ đồng; các công trình công cộng và quản lý nhà nước có 24 hạng mục với số vốn 92,5 tỷ đồng. Các cơ sở vật chất được xây dựng nhanh, quy hoạch được xây dựng và xét duyệt kỹ, từ đó các tuyến đường giao thông được xăy dựng và mở rộng, nâng cấp tốt hơn, hệ thống đường nội thị ở cửa khẩu được xây dựng cơ bản hoàn thành, hệ thống cấp, thoát nước được xây dựng, điện chiếu sáng, thông tin liên lạc được đảm bảo, nhiều khách sạnm khu thương mại, nhà nghỉ và các cơ sở dịch vụ khác được xây dựng mới, đảm bảo điều kiện phục vụ tốt hơn. Đã chú trọng tập trung ưu tiên một được số dự án đầu tư phục vụ đảm bảo quốc phòng an ninh khu vực và các dự án kết hợp kinh tế với quốc phòng. Một số khu du lịch cũng được khôi phục hoặc đầu tư xây dựng mở rộng nhe: khu du lịch Mẫu Sơn-thuộc xã biên giới huyện Lộc Bình, nằm trên độ cao 1200m so với mặt nước biển, khu du lịch thắng cảnh Tam-Nhị Thanh, thành nhà Mạc, và nhiều cơ sở dịch vụ du lịch khác ở Đồng Đăng, Hữu Nghị v.v…
Các tuyến Quốc lộ trên địa bàn đã được xây dựng:
+ Quốc lộ 1A: là tuyến Quốc lộ xuyên Việt, từ cửa khẩu Hữu Nghị Quan qua địa phận Lạng Sơn về Hà Nội
+ Quốc lộ 1B: Lạng Sơn qua Thái Nguyên
+ Quốc lộ 4B: Lạng Sơn đi Cao Bằng
+ Quốc lộ 4A: Lạng Sơn qua Tiên Yên đến thị xã Móng Cái-Quảng
Ninh
+ Quốc lộ 31: Đình Lập-Bắc Giang
+ Quốc lộ 279: Bắc Cạn-Bình Gia (Lạng Sơn)
+ Các tuyến đường sắt:
+ Đường sắt liên vận quốc tế Hà Nội-Trung Quốc chạy qua địa phận Lạng Sơn khoảng trên 100 km.
+ Đường sắt Lạng Sơn-Na Dương
Con đường thông thương giữa các khu kinh tế cửa khẩu của Lạng Sơn với các địa bàn khác trong nước cũng như ngoài nước là khá thuận tiện với chất lượng ngày càng được nâng cao.
- Về thu ngân sách: Trong 2 năm 1997-1998, số thu trên địa bàn thí điểm đạt bình quân 154 tỷ đồng. Năm 1999, số thu trên địa bàn đạt 276,704 tỷ đồng, chiếm 67% tổng thu ngân sách của tỉnh Lạng Sơn. Từ năm 2001 đến nay mỗi năm số thu từ khu kinh tế cửa khẩu tăng 15-25% so với năm trước. Năm 2002 số thu từ khu kinh tế cửa khẩu đạt 687,5 tỉ đồng; năm 2003 đạt 825 tỉ đồng; năm 2004 đạt xấp xỉ 950 tỉ đồng. Con số này thể hiện công tác quản lý nguồn thu, chống buôn lậu và gian lận thương mại được thực hiện tốt nhờ đó mà tạo ra môi trường thông thoáng cho hoạt động thương mại xuất nhập khẩu phát triển, làm nguồn thu ở mức cao mặc dù thời điểm đó kinh tế các nước trong khu vực đang bị khủng hoảng.
Các kết quả trên cho thấy sự nỗ lực của các cấp các ngành địa phương trong việc tổ chức thực hiện, quản lý và phối hợp một cách nghiêm túc trong thời gian qua. Trong thời gian gần đây nếu được Chính phủ cho phép Lạng Sơn tiếp tục thực hiện các chính sách đã được ban hành với sự điều chỉnh bổ sung cho thích hợp với tình hình thực tế thì trong vòng vài năm trước mắt bộ mặt khu vực cửa khẩu biên giới sẽ có sự thay đổi cơ bản theo chiều hướng tạo điều kiện cho sự hội nhập của nước ta với khu vực và thế giới, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, nền kinh tế tỉnh phát triển lên một trình độ mới vững chắc.
Tuy nhiên để có thể có những bước tiến như trên đòi hỏi sự nỗ lực hơn nữa của các cấp các ngành địa phương để có thể khắc phục được một số những hạn chế còn tồn tại sau:
- Sự điều hòa phối hợp chính sách chưa được đồng bộ, chưa thực sự thông thoáng. Các chính sách về XNC, XNK, quản lý thu đổi tiền tại các khu vực biên giới chưa được điều chỉnh kịp thời; chưa mạnh dạn phân cấp cho địa phương tự quyết định đầu tư trong XDCB; chưa giải quyết được việc cấp hóa đơn thu thuế cho lưu thông hàng hoá nhập theo Quy chế chợ biên giới Việt – Trung.
- Các chính sách còn chưa thể hiện được sự ưu tiên đặc biệt đối với khu vực kinh tế cửa khẩu. Ngoài chính sách về tài chính, hầu hết vẫn thực hiên theo các qui định chung của cả nước.
- Ta chưa có một cơ quan thống nhất quản lý điều hành các hoạt động giao lưu kinh tế với Trung Quốc; chưa có tổ chức nghiên cứu thị trường một cách đầy đủ, kịp thời nắm những thông tin cần thiết để có đối sách phù hợp.
- Các sản phẩm du lịch của tỉnh còn đơn giản, chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của địa phương nên chưa có sức lôi cuốn du khách lưu lại. Công tác khảo sát thiết kế một số công trình chưa sát với thực tế nên trong quá trình còn phải bổ sung nhiều.
- Mặc dù đã có nhiều cải cách về quy trình thủ tục trong công tác XNK, XNC, kiểm dịch tại các cửa khẩu, nhưng vẫn còn nhiều phiền hà nảy sinh tiêu cực thông qua thực hiện công tác chuyên môn. Điều kiện trang thiết bị phục vụ cho công tác kiểm dịch còn yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế.
2.1.3 Khu kinh tế cửa khẩu Cao Bằng
Khu kinh tế cửa khẩu ở Cao Bằng được thành lập theo Quyết định số 171/1998/QĐ-TTg ngày 09/9/1998 của Thủ tường Chính phủ, bao gồm ba khu vực: khu kinh tế cửa khẩu Tà Lùng rộng 500 ha; khu vực kinh tế cửa khẩu Hùng Quốc rộng 30 ha; khu vực kinh tế cửa khẩu Sóc Giang rộng 58 ha và một số xã, được ưu tiên phát triển thương mại, đầu tư, xuất nhập khẩu, dịch vụ, du lịch, công nghiệp và nông nghiệp theo luật pháp của Việt