Hoạt động ngân hàng phi truyền thống và hiệu quả ngân hàng - Trường hợp các ngân hàng thương mại niêm yết Việt Nam giai đoạn 2011 - 2019 - 2

DANH MỤC BẢNG


Bảng 2.1. Các yếu tố chủ quan và khách quan tác động đến hiệu quả ngân hàng 24

Bảng 2.2. Tỉ lệ thu nhập từ phí trên tổng thu nhập của 15 nước trên thế từ 1980 – 1990 28

Bảng 2.3. Các hoạt động tạo phí của NHTM 34

Bảng 2.4. Thị phần tài sản của các định chế tài chính ở Mỹ từ 1890 – 1993 38

Bảng 2.5. Tóm tắt về các tổ chức giám sát bởi FED tính đến quý 2/2019 39

Bảng 2.6: Tổng hợp các nghiên cứu về tác động của hoạt động ngân hàng phi truyền thống đến hiệu quả ngân hàng 56

Bảng 2.7. Bảng tổng hợp các nghiên cứu về các yếu tố tác động đến hoạt động ngân hàng phi truyền thống 64

Bảng 2.8. Tổng hợp các nghiên cứu về hiệu quả ngân hàng ở Việt Nam tập trung vào đo lường hiệu quả ngân hàng 68

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 199 trang tài liệu này.

Bảng 2.9. Tổng hợp những nghiên cứu về các yếu tố tác động đến hiệu quả ngân hàng ở Việt Nam 70

Bảng 3.1. Mô tả các biến trong mô hình nghiên cứu tác động của hoạt động ngân hàng phi truyền thống đến hiệu quả ngân hàng 82

Hoạt động ngân hàng phi truyền thống và hiệu quả ngân hàng - Trường hợp các ngân hàng thương mại niêm yết Việt Nam giai đoạn 2011 - 2019 - 2

Bảng 3.2. Mô tả các biến trong mô hình nghiên cứu các yếu tố tác động đến hoạt động ngân hàng phi truyền thống 89

Bảng 4.1. Kết quả phân tích DEA về hiệu quả kỹ thuật của các NHTMNY 99

Bảng 4.2. Kết quả thống kê phân tích DEA của các NHTMNY Việt Nam 100

Bảng 4.3. Kết quả thống kê mô tả các biến trong mô hình 105

Bảng 4.4. Ma trận hệ số tương quan 107

Bảng 4.5. Kiểm tra đa cộng tuyến giữa các biến độc lập trong mô hình tác động của hoạt động ngân hàng phi truyền thống đến hiệu quả ngân hàng 107

Bảng 4.6. Kiểm tra đa cộng tuyến giữa các biến độc lập trong mô hình các yếu tố tác động đến hoạt động ngân hàng phi truyền thống 108

Bảng 4.7. Kết quả ước lượng mô hình tác động của hoạt động ngân hàng phi truyền thống đến hiệu quả ngân hàng 109

Bảng 4.8. Kết quả ước lượng mô hình tác động của tỷ lệ thu nhập từ dịch vụ trên tổng thu nhập (SER) đến hiệu quả ngân hàng 113

Bảng 4.9. Kết quả ước lượng mô hình tác động của tỷ lệ thu nhập từ kinh doanh ngoại hối trên tổng thu nhập (FOREX) đến hiệu quả ngân hàng 116

Bảng 4.10 Kết quả ước lượng mô hình tác động của tỷ lệ thu nhập từ mua bán chứng khoán trên tổng thu nhập (SEC) đến hiệu quả ngân hàng 119

Bảng 4.11. Kết quả ước lượng mô hình tác động của tỷ lệ thu nhập khác trên tổng thu nhập (OTHER) đến hiệu quả ngân hàng 121

Bảng 4.12. Kết quả ước lượng mô hình các yếu tố tác động đến hoạt động ngân hàng phi truyền thống 124

DANH MỤC HÌNH

Hình 2.1. So sánh DEA và FHD 16

Hình 2.1. Tỷ lệ thu nhập phi lãi trên tổng thu nhập của các NHTM Mỹ 29

giai đoạn 2000 – 2018 29

Hình 2.2. Tỷ lệ thu nhập phi lãi trên tổng thu nhập của các NHTM Canada 30

giai đoạn 1996 – 2017 30

Hình 2.3. Tỷ lệ thu nhập phi lãi trên tổng thu nhập của các NHTM Đức 30

giai đoạn 1996 – 2017 30

Hình 2.4. Tỷ lệ thu nhập phi lãi trên tổng thu nhập của các NHTM Pháp 30

giai đoạn 1996 – 2017 30

Hình 2.5 Thu nhập từ lãi và thu nhập phi lãi của các ngân hàng lớn ở Anh giai đoạn 1996 – 2017 31

Hình 2.6. Tỷ lệ thu nhập phi lãi trên tổng thu nhập của các NHTM Thụy Sỹ 31

giai đoạn 1996 – 2017 31

Hình 2.7. Tỷ lệ thu nhập phi lãi trên tổng thu nhập của các NHTM Úc 31

giai đoạn 1996 – 2017 31

Hình 2.8. Tỷ lệ thu nhập phi lãi trên tổng thu nhập của các NHTM Nhật Bản 32

giai đoạn 1996 – 2017 32

Hình 2.8. Tỷ lệ thu nhập phi lãi trên tổng thu nhập của các NHTM Trung Quốc 32

giai đoạn 1996 – 2017 32

Hình 2.9. Tỷ lệ thu nhập phi lãi trên tổng thu nhập của các NHTM Singapore 32

giai đoạn 1996 – 2017 32

Hình 4.1. Hiệu quả kỹ thuật của các NHTMNY Việt Nam qua các năm 100

Hình 4.2. Tỉ trọng thu nhập ngoài lãi trên tổng thu nhập hoạt động của các NHTMNY từ 2011 – 2019 101

Hình 4.3. Thu nhập từ hoạt động dịch vụ của các NHTMNY từ 2011-2019 102

Hình 4.4. Lãi/lỗ thuần từ hoạt động kinh doanh ngoại hối của các NHTMNY từ 2011 – 2019 103

Hình 4.5. Lãi thuần từ mua bán chứng khoán đầu tư của các NHTM niêm yết 104

Hình 4.7. Thu nhập từ hoạt động khác của các NHTMNY từ 2011-2019 105

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU


1.1. Lý do nghiên cứu

Hiện nay, với chỉ riêng hệ thống các NHTM ở Việt Nam (gồm 4 NHTM Nhà nước, 31 NHTM cổ phần trong nước, 9 ngân hàng có 100% vốn nước ngoài và 2 ngân hàng liên doanh) thì các NHTM Việt Nam đã và đang đối mặt với thực trạng cạnh tranh ngày càng gay gắt. Không chỉ ở mảng hoạt động ngân hàng truyền thống với việc tăng lãi suất huy động vốn và giảm lãi suất cho vay, các ngân hàng còn mở rộng sang các hoạt động ngân hàng phi truyền thống bao gồm các dịch vụ phi tín dụng như thanh toán, bảo hiểm, tư vấn, quản lý tài sản, quản lý rủi ro đầu tư cho khách hàng và các hoạt động đầu tư, ngoại hối, mua bán chứng khoán, góp vốn, mua cổ phần… để thu hút khách hàng. Điều này được hỗ trợ về pháp lý bởi 2 đề án “Cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 – 2015” và “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 - 2020” với những nội dung đáng chú ý như sau:

Giai đoạn 2011-2015: từng bước chuyển dịch mô hình kinh doanh của các NHTM theo hướng giảm bớt sự phụ thuộc vào hoạt động tín dụng và tăng nguồn thu nhập từ hoạt động dịch vụ phi tín dụng. Đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng trong đó tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng truyền thống và phát triển nhanh các dịch vụ thanh toán, ngoại hối, đầu tư, quản lý tài sản, quản lý rủi ro cho khách hàng ..

Phấn đấu đến năm 2020 tăng gấp 2 lần tỷ trọng thu nhập từ hoạt động dịch vụ phi tín dụng trong tổng thu nhập của các ngân hàng thương mại; Chuyển đổi mạnh mẽ mô hình kinh doanh của các ngân hàng thương mại theo hướng từ “độc canh tín dụng” sang mô hình đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ ngân hàng phi tín dụng.

Ngoài ra, Chính phủ cũng đã ban hành quyết định số 986/QĐ - TTg về việc phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 và sau đó được NHNN cụ thể hoá thành chương trình hành động của ngành ngân hàng thực hiện chiến lược phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 ban hành theo quyết định số: 34/QĐ - NHNN ngày 07/01/2019 với những điểm đáng quan tâm sau:

“Đến năm 2020, tỷ lệ thu nhập từ hoạt động dịch vụ phi tín dụng trong tổng thu nhập của các NHTM lên khoảng 12 - 13%”

“Đến năm 2025, tỷ lệ thu nhập từ hoạt động dịch vụ phi tín dụng trong tổng thu nhập của các NHTM lên khoảng 16-17%”

Như vậy, có thể thấy rằng, NHNN đã đưa ra những định hướng rất rõ ràng cho hệ thống NHTM Việt Nam là chuyển đổi mô hình kinh doanh từ phụ thuộc vào hoạt động tín dụng sang mô hình ngân hàng đa năng vừa nâng cao chất lượng các hoạt động ngân hàng truyền thống, vừa phát triển mạnh các hoạt động NHPTT. Với những chỉ đạo quyết liệt, sát sao của chính phủ, hệ thống NHTM đã có những cơ sở pháp lý vững chắc để cải thiện năng lực cạnh tranh, nâng cao hiệu quả nói chung theo hướng an toàn, lợi nhuận cũng như đóng góp nhiều hơn cho quá trình phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, việc chuyển đổi mô hình hoạt động, gia tăng các hoạt động NHPTT sẽ có ảnh hưởng đến hiệu quả của ngân hàng. Vì vậy, việc tìm hiểu mối quan hệ giữa hoạt động NHPTT và hiệu quả ngân hàng là rất quan trọng đối với những nhà điều hành ngân hàng, người làm chính sách, những nhà đầu tư để có thể đưa ra những quyết định đúng đắn.

Hầu hết các tài liệu hiện có về hoạt động NHPTT trong ngành ngân hàng tập trung vào tìm hiểu tác động của hoạt động NHPTT đến hiệu quả ngân hàng thông qua việc đo lường các loại hiệu quả ngân hàng bằng những mô hình có và không có biến đầu ra là hoạt động NHPTT, chỉ một số ít nghiên cứu tiến hành phân tích tác động của hoạt động NHPTT đến hiệu quả ngân hàng bằng các mô hình hồi quy với điểm hiệu quả ngân hàng là biến phụ thuộc, hoạt động NHPTT là biến độc lập cùng với một số biến kiểm soát khác. Kết quả nghiên cứu cũng dẫn đến 2 quan điểm trái ngược nhau về mối quan hệ giữa hoạt động NHPTT và hiệu quả ngân hàng. Một quan điểm cho rằng hoạt động NHPTT làm tăng hiệu quả bởi các ngân hàng có thể tái sử dụng thông tin, chia sẻ các yếu tố đầu vào như lao động và công nghệ cùng lúc cho nhiều hoạt động khác nhau nên được hưởng lợi ích về quy mô. Những nghiên cứu thực nghiệm ủng hộ cho giả thuyết này như Rogers (1998), Clark & Siems (2002), Isik & Hassan (2002), Tortosa-Ausina (2003), Lieu và cộng sự. (2005), Huang và cộng sự. (2006), Budd (2009), Sufian & Habibullah (2009), Lozano-Vivas & Pasiouras (2010) và Gulati & Kumar (2011). Một số nghiên cứu như Pasiouras (2008), Akhigbe & Stevenson (2010) và Bian và cộng sự. (2015) lại ủng hộ quan điểm thứ hai cho rằng hoạt động NHPTT tác động xấu đến hiệu quả ngân hàng khi làm giảm hiệu quả của các NHTM hoặc có tác động không đáng kể đến hiệu quả ngân hàng. Như vậy, các nghiên cứu hiện tại trên thế giới về tác động của hoạt động NHPTT đến hiệu quả của các NHTM chưa đi đến kết luận thống nhất.

Bên cạnh đó, nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động NHPTT cũng chưa thật sáng tỏ vì chỉ có một số ít nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề này như của Rogers & Sinkey (1999), DeYoung & Rice (2004b), Shahimi và cộng sự. (2006), Hahm (2008), Sáng & Hoa (2013), Firth và cộng sự. (2016). Việc tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng hoạt động NHPTT cũng rất cần thiết để ngân hàng có giải pháp tác động các yếu tố này nhằm thực hiện các hoạt động NHPTT tốt hơn, mang lại hiệu quả cao cho ngân hàng.

Ở Việt Nam, các nghiên cứu về hiệu quả ngân hàng chủ yếu tập trung vào đo lường các loại hiệu quả như Hùng (2007), Vu & Turnell (2010), Thành (2010), Vinh (2012), Nahm & Vu (2013), Nguyen & Simioni (2015), Ngo & Tripe (2017), Tu (2017) hoặc tìm hiểu về tác động của cạnh tranh, rủi ro, đa dạng hoá, cải cách quản lý đến hiệu quả ngân hàng như Minh và cộng sự. (2013), Vu & Nahm (2013b), Matousek và cộng sự. (2016), Thanh và cộng sự. (2016), Thanh & Sơn (2018), Sáng (2017), Tu (2018), Loan và cộng sự. (2019), chứ chưa quan tâm đến tác động của hoạt động NHPTT đến hiệu quả ngân hàng cũng như tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động NHPTT, ngoại trừ nghiên cứu của Sáng & Hoa (2013) về các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập ngoài lãi của các NHTM Việt Nam và nghiên cứu của Hùng (2019) về các yếu tố vĩ mô tác động đến thu nhập ngoài lãi của các NHTM Việt Nam.

Bên cạnh đó, Theo Quyết định số 242 được Thủ tướng Chính phủ ký ngày 28/2/2019 phê duyệt Ðề án "Cơ cấu lại thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025", đến hết năm 2020, tất cả các NHTM sẽ phải đưa cổ phiếu lên niêm yết hoặc đăng ký giao dịch trên sàn UPCoM. Tuy nhiên cho đến thời điểm hiện tại, trong số 31 ngân hàng đang hoạt động trên thị trường thì mới có 13 cổ phiếu ngân hàng đang được niêm yết chính thức và giao dịch trên sàn chứng khoán, trong đó 10 cổ phiếu được giao dịch trên sàn HOSE gồm VCB, CTG, BID, TCB, MBB, VPB, HDB, EIB, STB, TPB; 3 cổ phiếu niêm yết trên sàn HNX là ACB, SHB, NVB. Những ngân hàng đã niêm yết chính thức này không chỉ là những ngân hàng có kết quả hoạt động kinh doanh tốt, có uy tín, thương hiệu mạnh, đi đầu trong việc đẩy mạnh phát triển các hoạt động NHPTT mà còn có tổng tài sản chiếm tỷ trọng lớn (70%) trong hệ thống NHTM (theo tính toán của tác giả dựa trên BCTC đã kiểm toán 2019 của các NHTM trong nước).

Như vậy, qua sự tìm hiểu của tác giả, có thể thấy rằng chưa có công trình nghiên cứu đầy đủ cả về tác động của hoạt động NHPTT đến hiệu quả ngân hàng và các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động NHPTT để từ đó các NHTM Việt Nam nói chung và các NHTMNY

nói riêng có cơ sở đánh giá đầy đủ về hoạt động NHPTT cũng như tìm ra hướng phát triển hoạt động NHPTT sao cho mang lại hiệu quả ngân hàng cao nhất. Vì vậy, đề tài nghiên cứu “HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG PHI TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆU QUẢ NGÂN HÀNG: TRƯỜNG HỢP CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NIÊM YẾT VIỆT NAM GIAI

ĐOẠN 2011 - 2019” là cần thiết để bổ sung cơ sở lý luận cũng như bằng chứng thực nghiệm về tác động của hoạt động NHPTT đến hiệu quả ngân hàng tại các NHTMNY Việt Nam, cũng như xác định các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động NHPTT tại NHTMNY Việt Nam. Từ đó, giúp các NHTMNY nói riêng và các NHTM tại Việt Nam nói chung có cơ sở để đẩy mạnh phát triển hoạt động NHPTT nhằm tăng hiệu quả cũng như sức cạnh tranh của ngân hàng.

1.2. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu tổng quát: đánh giá tác động của hoạt động NHPTT đến hiệu quả ngân hàng và các yếu tố tác động đến hoạt động NHPTT. Trên cơ sở đó, đề xuất một số hàm ý chính sách và các giải pháp phù hợp để đẩy mạnh phát triển các hoạt động NHPTT giúp nâng sao hiệu quả và sức cạnh tranh cho các NHTMNY nói riêng và các NHTM Việt Nam nói chung.

Mục tiêu nghiên cứu cụ thể:

Để đạt được mục tiêu tổng quát, nghiên cứu có các mục tiêu cụ thể sau:

Thứ nhất, đánh giá tác động của các hoạt động NHPTT đến hiệu quả ngân hàng tại các NHTMNY Việt Nam

Thứ hai, đánh giá các yếu tố tác động đến hoạt động NHPTT tại các NHTMNY Việt Nam.

1.3. Câu hỏi nghiên cứu:

Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu cụ thể trên, luận án trả lời các câu hỏi nghiên cứu sau: Một là, hoạt động NHPTT tác động như thế nào đến hiệu quả ngân hàng tại NHTMNY

Việt Nam?

Hai là, các yếu tố nào tác động đến hoạt động NHPTT tại NHTMNY Việt Nam? Các yếu tố đó tác động theo chiều hướng như thế nào?

1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Tác động của hoạt động NHPTT đến hiệu quả ngân hàng tại NHTMNY Việt Nam và các yếu tố tác động đến hoạt động NHPTT tại các NHTMNY Việt Nam.

Phạm vi nghiên cứu:

Theo NHNN, tính đến 31/12/2019, hệ thống ngân hàng Việt Nam mới chỉ có 13 NHTM niêm yết chính thức tại Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Sở giao dịch chứng khoá Hà Nội gồm ACB, BID, CTG, EIB, HD, MBB, NCB, SHB, STB, TCB, TPB, VCB, VPB. Những ngân hàng đã niêm yết chính thức này không chỉ là những ngân hàng có kết quả hoạt động kinh doanh tốt, có uy tín, thương hiệu mạnh, đi đầu trong việc đẩy mạnh phát triển các hoạt động NHPTT mà còn có tổng tài sản chiếm tỷ trọng lớn (70%) trong hệ thống NHTM (theo tính toán của tác giả dựa trên BCTC đã kiểm toán 2019 của các NHTM trong nước).

Thêm vào đó, xét theo tổng tài sản, 13 ngân hàng trên còn có tính đại diện cho các nhóm ngân hàng có tổng tài sản khác nhau trong cả hệ thống ngân hàng. Cụ thể là, theo BCTC đã kiểm toán của các NHTM, dựa vào tổng tài sản tính đến 31/12/2019, có thể chia các NHTM trong nước thành 4 nhóm: nhóm 1, những ngân hàng có tổng tài sản lớn nhất, trên 1 triệu tỉ đồng; nhóm 2, những NHTM có tổng tài sản từ 200 ngàn đến dưới 500 ngàn tỉ đồng; nhóm 3, những ngân hàng có tổng tài sản từ 100 ngàn đến 200 ngàn tỉ đồng và nhóm cuối cùng là những ngân hàng có tổng tài sản dưới 100 ngàn tỉ đồng. Theo đó, BID, CTG và VCB đại diện cho nhóm 1; STB, MBB, TCB, ACB, VPB, SHB và HDB đại diện cho nhóm 2; EIB và TPB đại diện cho nhóm 3 và NCB là đại diện cho nhóm 4.

Ngoài ra, vì 13 ngân hàng này đều đã được niêm yết chính thức nên về mặt dữ liệu sẽ đầy đủ và minh bạch để luận án có thể thu thập được.

Với những lý do trên, việc luận án lựa chọn các NHTMNY để nghiên cứu là có cơ sở, khả thi và bao quát được cho toàn bộ các NHTM trong nước.

Thời gian nghiên cứu: luận án nghiên cứu giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2019 vì nhiều lý do.

Thứ nhất, đây là giai đoạn NHNN Việt Nam tiến hành 2 đề án tái cơ cấu căn bản, triệt để và toàn diện hệ thống các tổ chức tín dụng sau khủng hoảng kinh tế thế giới nhằm nâng cao sức cạnh tranh, sự phát triển cho hệ thống NHTM Việt Nam nói riêng và toàn hệ thống tổ chức tín dụng nói chung theo hướng hoạt động an toàn, hiệu quả vững chắc. Do đó, sẽ có đủ dữ liệu cho luận án.

Thứ hai, về phía các NHTM Việt Nam nói chung và các NHTMNY nói riêng, giai đoạn này là giai đoạn bản lề, quan trọng trong chiến lược phát triển dài hạn của các ngân hàng, là giai đoạn mà các ngân hàng phải từng bước chuyển dịch từ mô hình kinh doanh

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 13/05/2023