Đánh Giá Mức Độ Tự Do Hóa Tài Chính Ở Việt Nam


tương quan lớn hơn 0,8 do đó các biến độc lập không xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến. Vì vậy, ta hoàn toàn có thể đưa các biến độc lập vào mô hình hồi quy.

Bảng 4.3 – Biến và ký hiệu sử dụng trong mô hình kiểm định


Biến

Ký hiệu

Nguồn

Logarit

Chỉ số tình trạng bất ổn tài chính

FIS

SBV

LnFIS

Chỉ số tự do hóa tài chính

FLI

Tính toán của tác giả4


Lãi suất cho vay thực

LRR

IFS, GSO

LnLRR

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 70 trang tài liệu này.


4.3. Kết quả nghiên cứu‌

4.3.1. Đánh giá mức độ tự do hóa tài chính ở Việt Nam

Tác giả sử dụng đồ thị có được từ số liệu tính toán của phương trình (3.1) để đánh giá mức độ tự do hóa tài chính ở Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1996 đến năm 2012.

Biểu đồ 4 1 Biểu đồ chỉ số FLI của Việt Nam trong giai đoạn 1996 đến 2012 1

Biểu đồ 4.1: Biểu đồ chỉ số FLI của Việt Nam trong giai đoạn 1996 đến 2012

(Nguồn: tính toán của tác giả dựa vào kết quả tính toán được trình bày ở Phụ lục 1)

Biểu đồ trên cho thấy giai đoạn từ năm 2001 đến 2007 là thời kỳ Việt Nam thực thi nhiều chính sách tự do hóa tài chính nhất. Giai đoạn từ năm 2008 đến 2012




4 Kết quả tính toán được trình bày tại Phụ lục 1.


đường biểu diễn chỉ số tự do hóa tài chính có xu hướng đi xuống và nằm ngang. Điều này có nghĩa là khủng hoảng tài chính xảy ra ở Mỹ đã có tác động đến quá trình thực thi các chính sách tự do hóa ở Việt Nam. Khi khủng hoảng tài chính xảy ra, Việt Nam đã thực hiện một số biện pháp5 nhằm thắt chặt hơn các chính sách để kiềm chế lạm phát cũng như ổn định nền kinh tế vĩ mô.


4.3.2. Kiểm định tác động của tự do hóa tài chính đến bất ổn tài chính ở Việt Nam6

4.3.2.1. Kiểm định tính dừng của chuỗi số liệu

Để kiểm định tính dừng của chuỗi thời gian, tác giả dựa vào kiểm định Augmented Dickey-Fuller (ADF).

Giả thuyết:

H0: chuỗi thời gian kiểm định là một chuỗi không dừng. H1: chuỗi thời gian kiểm định là một chuỗi dừng.

Kết quả như sau:

Bảng 4.4 – Kết quả kiểm định tính dừng của chuỗi dữ liệu



Biến

ADF Unit Root Test

ADF Test

Statistic

1%

5%

10%

LnFIS

-1.609439

-2.600471

-1.945823

-1.613589

FLI

0.841244

-2.599934

-1.945745

-1.613633

LnLRR

-0.831527

-2.601024

-1.945903

-1.613543

(Nguồn: tính toán của tác giả dựa vào kết quả tính toán ở Phụ lục 4)

Căn cứ kết quả của bảng 4.4, giá trị kiểm định ADF của các biến đều nhỏ hơn giá trị tới hạn ở cả 3 mức ý nghĩa lần lượt là 1%, 5%, 10%. Tức là chúng ta không thể bác bỏ giả thuyết H0. Điều này đồng nghĩa tất cả các biến trong kiểm định ADF




5 Các biện pháp được trình bày tại Phụ lục 1 (phần giới thiệu các chính sách tự do hóa tài chính được thực thi tại Việt Nam).

6 Chi tiết xin xem Phụ lục 3.


đều là những chuỗi không dừng ở chuỗi gốc. Vì vậy ta tiến hành lấy sai phân để kiểm định tính dừng của chuỗi dữ liệu. Kết quả cho thấy tất cả chuỗi dữ liệu đều dừng ở sai phân bậc 1.

4.3.2.2. Kiểm định mối quan hệ đồng tích hợp

Kết quả kiểm định cho thấy tồn tại mối quan hệ đồng tích hợp giữa biến FLI, LnLRR và LnFIS do giá trị trace statistic < giá trị tới hạn ở mức ý nghĩa 5%. Vì vậy ta tiến hành kiểm định mối quan hệ trong dài hạn bằng kiểm định nhân quả Granger.

4.3.2.3. Kiểm định mối quan hệ nhân quả Engle – Granger

Kết quả kiểm định cho thấy tồn tại mối quan hệ trong dài hạn giữa biến FLI và FIS, biến FIS và biến LRR, biến LRR và biến FLI.

4.3.2.4. Kết quả kiểm định mô hình hồi quy

Do các chuỗi dữ liệu có mối quan hệ đồng tích hợp nên tác giả sử dụng mô hình véc-tơ hiệu chỉnh sai số (VECM) để kiểm định mối quan hệ giữa tự do hóa tài chính và tính bất ổn tài chính.

Kết quả kiểm định cho thấy tự do hóa tài chính có tác động đến tính bất ổn tài chính theo mối quan hệ thuận sau một độ trễ, tức là 1% mở rộng chính sách tự do hóa sẽ làm gia tăng 1% tính bất ổn tài chính. Ngoài ra, biến giả cho thấy có một tác động nghịch chiều đối với tính bất ổn tài chính nghĩa là khi khủng hoảng kinh tế tài chính ở Mỹ xảy ra, Việt Nam đã thực hiện các biện pháp “siết chặt” đối với tự do hóa tài chính, điều này làm cho tính bất ổn tài chính giảm đi. Mức độ giải thích của mô hình là 53.19% nghĩa là mối quan hệ này khá bền chặt.


CHƯƠNG 5 – KẾT LUẬN


5.1. Tóm tắt những điểm chính của đề tài

Tự do hóa tài chính đã được đề cập đến lần đầu tiên bởi hai nhà kinh tế học là McKinnon (1973) và Shaw (1973). Hai ông cho rằng tự do hóa tài chính thúc đẩy tăng trưởng vì khi trần lãi suất được xóa bỏ, tỷ lệ dữ trữ bắt buộc được giảm xuống và vấn đề chia cắt thị trường tài chính được giảm nhẹ thì tiết kiệm gia tăng, hiệu quả phân bổ vốn đầu tư của các tổ chức và thị trường tài chính cũng được cải thiện. Tuy nhiên mặt trái của tự do hóa tài chính đó là tự do hóa tài chính tạo ra tình trạng bất ổn về tài chính. Điều này càng được củng cố thêm khi khủng hoảng tài chính ở Châu Á xảy ra vào năm 1997. Các bằng chứng thực nghiệm cũng cho thấy khủng hoảng ngân hàng quả thật có khả năng xảy ra nhiều hơn tại những nước có khu vực tài chính tự do hóa, ngay cả khi các yếu tố khác (bao gồm lãi suất thực) đã được kiểm soát; ngoài ra, tình trạng mỏng manh của hệ thống ngân hàng gia tăng không phải là một đặc trưng của kết quả tức thời của việc tự do hóa; mà đúng hơn, nó có xu hướng xuất hiện một vài năm sau khi quá trình tự do hóa bắt đầu (Asli Demirgüç-Kunt and Enrica Detragiache, 1998).

Và mặc dù các khía cạnh bên ngoài (tỷ giá cố định, lãi suất cao, và gia tăng quá mức các khoản cho vay ở nước ngoài) thuộc những nhân tố quan trọng gây ra khủng hoảng, thì khủng hoảng cũng sẽ không xảy ra nếu không có sự yếu kém ở bên trong như: các tổ chức giám sát không phù hợp, ngân hàng hoạt động theo phương thức truyền thống, và trên tất cả, các quyết định đầu tư sai của khu vực tư nhân ở các quốc gia này (Jackson 1999, trang 5).

Tất cả điều này có nghĩa là tự do hóa tài chính phải kết hợp với sự giám sát và quy định chặt chẽ các tổ chức ngân hàng và phi ngân hàng. Thiếu quy định, ngân hàng và công ty tài chính sẽ cho vay rủi ro trong giai đoạn bùng nổ kinh tế và do đó rơi vào khó khăn thanh khoản hay thậm chí mất khả năng thanh toán trong giai đoạn suy thoái.


Kết quả nghiên cứu ở Việt Nam cho thấy tự do hóa tài chính có tác động đến tính bất ổn tài chính theo mối quan hệ thuận sau một độ trễ, tức là 1% mở rộng chính sách tự do hóa sẽ làm gia tăng 1% tính bất ổn tài chính. Ngoài ra, biến giả cho thấy có một tác động nghịch chiều đối với tính bất ổn tài chính nghĩa là khi khủng hoảng kinh tế tài chính ở Mỹ xảy ra, Việt Nam đã thực hiện các biện pháp “siết chặt” đối với tự do hóa tài chính, điều này làm cho tính bất ổn tài chính giảm đi.

Phần tiếp theo tác giả sẽ trình bày một số biện pháp nhằm ổn định nền kinh tế tài chính khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu.


5.2. Gợi ý những biện pháp giúp ổn định nền kinh tế tài chính khi hội nhập vào nền kinh tế quốc tế‌

5.2.1. Cơ chế giám sát an toàn và hiệu quả

Sau hơn hai thập kỷ cải cách tuy có nhiều tiến bộ ghi nhận nhưng vẫn tồn tại nhiều rủi ro, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay, là tiềm ẩn các rủi ro chéo giữa khu vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm và các rủi ro mang tính hệ thống từ sự bất ổn của môi trường kinh tế vĩ mô cũng như từ các cú sốc ở bên ngoài. Hiện tại giám sát tài chính ở Việt Nam đang bộc lộ nhiều điểm hạn chế:

Thứ nhất: Hiện tại cơ chế giám sát hầu như chỉ dừng lại ở giám sát tuân thủ do đó để đáp ứng các yêu cầu phát sinh từ quá trình hội nhập và mở rộng quan hệ thương mại, đầu tư với bên ngoài thì cần phải sớm hoàn thiện hai cơ chế giám sát hiệu quả và giám sát cảnh báo sớm.

Thứ hai: hệ thống các chỉ tiêu giám sát tài chính công vẫn chưa bao quát hết các loại hình rủi ro liên quan. Hệ thống thông tin phục vụ cho công tác giám sát vẫn chưa đầy đủ, phân tán và chưa được cập nhật thường xuyên. Công tác thống kê, hạch toán trong một số trường hợp chưa theo đúng chuẩn mực quốc tế nên khó so sánh khi đánh giá mức độ rủi ro.

Thứ ba: công tác giám sát tuân thủ pháp luật trên thị trường chứng khoán trong một số nội dung còn chưa bao quát hết các vấn đề mới phát sinh trên thực


tiễn. Hoạt động giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động tài chính của các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn những điểm cần tiếp tục cải thiện.

Thứ tư: việc chia sẻ thông tin trong nội bộ từng ngành cũng như giữa các cơ quan chức năng còn nhiều điểm hạn chế. Cơ cấu hệ thống giám sát tương đối hoàn chỉnh nhưng còn thiếu cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các bộ phận, nhất là tầm vĩ mô, liên ngành.

Do đó để đảm bảo việc giám sát có hiệu quả thì cần thiết phải:

Xây dựng khuôn khổ pháp lý cho giám sát tài chính vĩ mô đầy đủ và hoàn thiện.

Đảm bảo có cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan, bộ ngành liên quan trong thực hiện giám sát.

Có sự hiện diện của một hệ thống tiêu chí, chỉ tiêu giám sát tài chính vĩ mô bao quát được các nội dung và chủ thể cần giám sát.

Hình thành được hệ thống dữ liệu thông tin phục vụ công tác giám sát tài chính vĩ mô một cách đầy đủ, chính xác, kịp thời

Đảm bảo tính minh bạch, công khai trong việc thực hiện giám sát tài chính vĩ mô.

5.2.2. Lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia

Lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia một trong những mục tiêu chiến lược hàng đầu phát triển tài chính-tiền tệ giai đoạn 2010-2015. Văn kiện Đại hội XI của Đảng khẳng định phải “tạo lập môi trường tài chính lành mạnh, thông thoáng nhằm giải phóng và phát triển các nguồn lực tài chính và tiềm năng sản xuất của các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư; bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của thị trường tài chính- tiền tệ trong toàn bộ nền kinh tế”. Chính vì vậy thực hiện một số biện pháp sau nhằm hướng đến lành mạnh hóa nền tài chính nước nhà:

Để đảm bảo nguồn thu ngân sách Nhà nước lành mạnh thì trước hết cần phải thực hiện chống thất thu ngân sách, sau đó là phải có cơ cấu chi phí hợp lý và hiệu quả để đảm bảo chi ngân sách được lành mạnh.


Một nền tài chính lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn vốn trong nước, vào việc phát huy nội lực chứ không thể phụ thuộc quá nhiều vào các nguồn vốn bên ngoài, tuy các nguồn vốn này là rất quan trọng. Do vậy chính sách vay nợ quốc gia cần phải hết sức thận trọng, giữ các tỷ lệ nợ so với GDP, với kim ngạch xuất khẩu ở mức an toàn, và phải có các khoản dự trữ ngoại tệ sẵn sàng đối phó với những biến động của các dòng vốn.

Phải duy trì các cân đối lớn của nền kinh tế: sự thâm hụt quá mức của các cán cân thương mại, tài khoản vãng lai, tài khoản vốn và cán cân thanh toán làm suy giảm tính lành mạnh của nền tài chính quốc gia. Biện pháp đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế là thúc đẩy xuất khẩu, giảm nhập khẩu, đặc biệt là nhập khẩu hàng tiêu dùng, khuyến khích các hoạt động sản xuất kinh doanh ngoại tệ, chuyển ngoại tệ về nước, hạn chế chuyển ngoại tệ ra nước ngoài, kiểm soát chặt chẽ các luồng vốn nhằm ngăn chặn tình trạng rút vốn ồ ạt, tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài cả trực tiếp lẫn gián tiếp…mục tiêu là giảm thâm hụt, tiến tới cân bằng và thặng dư nếu có điều kiện.

5.2.3. Lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng

5.2.3.1. Giải quyết vấn đề nợ xấu:

Thứ nhất: Các ngân hàng chủ động tăng mức trích lập dự phòng các khoản nợ xấu, chấp nhận giảm lợi nhuận hoặc thua lỗ. Việc làm này, sẽ giúp ngân hàng thương mại nhanh chóng bù đắp tổn thất, giảm số thuế thu nhập doanh nghiệp. Đồng thời, có thể giảm quỹ lương nhưng làm tăng khả năng tài chính nội tại của ngân hàng.

Thứ hai: Nhà nước cần chứng khoán hóa các khoản nợ khó đòi theo 3 phương pháp. Nếu doanh nghiệp có lịch sử quản trị kinh doanh tốt, đang gặp khó khăn về nghĩa vụ trả nợ gốc hoặc do các dự án đầu tư đang triển khai chưa đi vào hoạt động… có thể chuyển một phần nợ gốc thành trái phiếu trung hạn. Điều này nhằm hỗ trợ thanh khoản và giúp doanh nghiệp tồn tại, phát triển. Phương pháp thứ hai là chuyển nợ quá hạn, nợ xấu thành cổ phần. Đồng thời, chuyển vị thế các ngân hàng


đang là chủ nợ thành cổ đông lớn nắm đa số cổ phần nếu nhận thấy sau tái cấu trúc doanh nghiệp có khả năng tồn tại và phát triển. Đây là cách thức xử lý khá phổ biến theo thông lệ thế giới. Đối với Việt Nam, từ trước tới nay đã có rất nhiều trường hợp thành công, không những cứu được doanh nghiệp khỏi nguy cơ giải thể phá sản mà còn bảo toàn được nguồn vốn của các ngân hàng.

Thứ ba: Ngân hàng cần tăng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong ngành ngân hàng lên 40%. Đồng thời cũng cho phép nâng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư chiến lược nước ngoài lên mức 25% hoặc 30% vốn điều lệ.

Thứ tư: Chính phủ cần cho phép một số ngân hàng nước ngoài có tiềm lực tài chính mạnh, quản trị doanh nghiệp tốt mua lại những nhà ngân hàng yếu kém (theo VAFI, ngân hàng yếu kém là những ngân hàng có quản trị kinh doanh yếu kém và tỷ lệ nợ xấu cao)..

Thứ năm: Ngân hàng Nhà nước cần khuyến khích các ngân hàng thật sự mạnh mua lại những ngân hàng yếu kém. Tuy nhiên, việc mua lại này cần sự hỗ trợ từ tài chính từ phía Ngân hàng Nhà nước.

Thứ sáu: Miễn các loại thuế (thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp…) cho các hoạt động mua bán nợ nhằm thúc đẩy sự hình thành và phát triển của thị trường mua bán nợ. Việc miễn các loại thuế về hoạt động mua bán nợ sẽ làm giảm tổn thất về nợ xấu, thúc đẩy các nhà đầu tư tư nhân tham gia vào thị trường mua bán nợ.

Thứ bảy: Nhà nước cần miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho nghiệp vụ phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Điều này giúp giảm lãi suất huy động và giúp hệ thống ngân hàng thương mại có điều kiện huy động vốn dài hạn, thay vì ngắn hạn, đồng thời thúc đẩy tiến trình chứng khoán hóa các khoản nợ.

5.2.3.2. Tăng tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản để đảm bảo khả năng chịu đựng rủi ro của các ngân hàng thương mại

Do quá trình xử lý nợ xấu sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận để lại của ngân hàng nên nguồn vốn để tăng vốn chủ sở hữu sẽ đến từ việc phát hành cổ phiếu cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Hệ số an toàn vốn tối thiểu cần phải được xây dựng

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 04/05/2022