Chính sách phát triển nhân lực khoa học và công nghệ để xây dựng trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội - 2

Tham khảo các tài liệu sách báo, kỷ yếu hội thảo khoa học về phát triển nguồn nhân lực.

+ Phỏng vấn sâu:


Một số cán bộ quản lý của trường, cán bộ Khoa, trung tâm, phòng ban trực thuộc trường,…(số lượng 15 người)

+ Điều tra bảng hỏi:


Điều tra bằng phiếu hỏi, khảo sát thực tế tại trường Đại học Công nghiệp Hà Nội (số lượng 50 người).

+ Phương pháp xử lý thông tin


Xử lý số liệu định lượng bằng phần mềm ứng dụng MS. Excel.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.


Xử lý thông tin định tính giữa các cán bộ được phỏng vấn sâu và thông tin định lượng các cán bộ được điều tra bằng bảng hỏi, với mục đích tìm kiếm những những giải pháp thích hợp trong hình thành và xây dựng phát triển nhân lực KH&CN của nhà trường.

Chính sách phát triển nhân lực khoa học và công nghệ để xây dựng trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội - 2

9. Kết cấu của luận văn


1. Khảo sát phân tích thực trạng của nhà trường


2. Đề xuất một số giải pháp về chính sách phát triển nhân lực KH &CN


3. Đánh giá các giải pháp


LUẬN VĂN BAO GỒM NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH NHƯ SAU:


Phần mở đầu, 3 chương, phần kết luận và khuyến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục.

PHẦN MỞ ĐẦU Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Các khái nhiệm cơ bản


1.2. Nhân lực khoa học và công nghệ

Chương 2. THỰC TRẠNG NHÂN LỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI

2.1. Trường đại học Công nghiệp Hà Nội


2.2. Thực trạng nguồn nhân lực KH & CN của trường Đại học Công nghiệp Hà Nội

Chương 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI

3.1. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng nhân lực KH & CN


3.2. Chính sách tuyển dụng, sử dụng cán bộ


3.3. Chính sách khuyến khích, đãi ngộ

PHẦN KẾT LUẬN

PHẦN KHUYẾN NGHỊ

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN


1.1. Các khái niệm cơ bản


1.1.1. Khái niệm chính sách


Thuật ngữ chính sách được hiểu là: “Chủ trương và các biện pháp của một đảng phái, một chính phủ trong các lĩnh vực chính trị - xã hội” ([22], t.368). Ở đây, chính sách được hiểu là sự thể hiện cụ thể của chủ trương và các biện pháp của các tổ chức chính trị hoặc tổ chức Nhà nước (Chính phủ) trong các lĩnh vực chính trị - xã hội. Bên cạnh cách hiểu theo trên, thuật ngữ chính sách còn có thể hiểu theo nghĩa rộng là: “Sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra” ([18], t.173). Thuật ngữ này không chỉ bao hàm những chính sách, biện pháp cụ thể mà còn bao hàm các chủ trương lớn, đường lối hoặc phương hướng chiến lược của một quốc gia, thể hiện quan điểm, thái độ ứng xử trong quá trình xử lý các vấn đề trong nước và quốc tế.

1.1.2. Khái niệm phát triển


“Phát triển là vận động, tiến triển theo chiều hướng tăng lên” ([22], t.1321) hoặc có thể hiểu theo cách khác là: “Biến đổi hoặc làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp” ([18], t.759).

Hầu hết các quốc gia ngày nay đều quan tâm đến phát triển. Các nước kém phát triển, nghèo và trì trệ hàng thế kỷ, nay đã vùng lên đấu tranh chống lại nghèo đói, bệnh tật, dốt nát và ách thống trị của những nước hùng mạnh hơn. Còn các quốc gia tiên tiến thì không ngừng chăm lo đến sự tăng trưởng nhanh và mạnh. Không phân biệt giàu nghèo, tiên tiến hay không tiên tiến, khẩu hiệu chung cho sự kỳ vọng của các quốc gia trên thế giới hiện nay là phát triển, tuy có sự khác nhau về nội dung ở từng nhóm nước khác nhau. Đối với một số nước thì phát triển có nghĩa là công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong khi đó một số nước lại cho rằng phát triển là việc giành được độc lập của quốc gia về chính trị và kinh tế. Một số nước khác hiểu phát triển như các

cơ hội giáo dục, xây dựng các đê điều, các tòa nhà chọc trời, v.v…

1.1.3. Khái niệm nguồn nhân lực


Nguồn nhân lực xã hội là lực lượng lao động (human labor), những năng lực về thể chất và trí tuệ để sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ cho kinh doanh hay còn có cách định nghĩa khác, là toàn bộ số lượng người có thể làm việc khi cần thiết.

Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng (lao động) của con người của một quốc gia, một vùng lãnh thổ, một địa phương đã được chuẩn bị ở mức độ nào đó có khả năng huy động vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước (hoặc một vùng, một địa phương cụ thể). Với cách tiếp cận này, nguồn nhân lực như một bộ phận cấu thành các nguồn lực của quốc gia như nguồn lực vật chất (trừ con người), nguồn lực tài chính, nguồn lực trí tuệ (chất xám)… Những nguồn lực này có thể được huy động một cách tối ưu để phát triển kinh tế - xã hội.

Nguồn nhân lực xã hội được nghiên cứu trên góc độ số lượng và chất lượng. Số lượng nguồn nhân lực được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực được nghiên cứu trên các khía cạnh về sức khỏe, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực phẩm chất…

Nguồn nhân lực của xã hội thể hiện tiềm năng của một quốc gia về con người, kể cả những người hiện tại chưa có việc làm, thất nghiệp và trẻ em trong các trường học.

Nguồn nhân lực của tổ chức là một bộ phận cấu thành nguồn nhân lực xã hội, bao gồm tất cả những ai làm việc cho tổ chức hoặc những người chờ đợi để làm việc cho tổ chức (nguồn dự trữ).

Nguồn nhân lực của mỗi tổ chức có những đòi hỏi, yêu cầu riêng tùy theo chức năng, nhiệm vụ, tính chất công việc của tổ chức đó. Đây chính là lý do vì sao mỗi tổ chức phải có chiến lược, kế hoạch phát triển, tạo nguồn nhân lực cho chính mình một cách hợp lý. Mặt khác, khi nguồn nhân lực xã hội có

thể đáp ứng được yêu cầu của tổ chức, thì tổ chức có thể sử dụng chúng. Cạnh

tranh để có được nguồn nhân lực xã hội phù hợp với yêu cầu của tổ chức là xu thế chung của thế giới trong nhiều năm qua và tiếp tục thúc đẩy cạnh tranh trong thời gian tới, dưới nhiều dạng khác nhau như: cạnh tranh nhân tài, cạnh tranh lao động có tay nghề cao, cạnh tranh lao động có chi phí rẻ,…([21], t.1).

1.2. Nhân lực khoa học và công nghệ


1.2.1. Khái niệm nhân lực khoa học và công nghệ


Theo nghĩa rộng, nhân lực khoa học và công nghệ bao gồm những người sở hữu trí thức, những người này tham gia trực tiếp trong việc nghiên cứu và phát triển khoa học cơ bản, công nghệ ứng dụng. Hàm lượng trí thức tích lũy trong nhân lực KH&CN có thể được thông qua đào tạo chính thức hoặc thông qua tích lũy kinh nghiệm và các công việc liên quan đến đổi mới.

Có 2 cách tiếp cận phổ biến về nhân lực khoa học và công nghệ:

Thứ nhất, nhân lực KH&CN được mô tả trong cuốn sổ tay của OECD năm 1995 với tên gọi “OECD’s Canberra Manual” và đã được sử dụng phổ biến trong các quốc gia cũng như các tài liệu nghiên cứu. Theo đó, nhân lực KH&CN gồm những người đáp ứng được một trong những điều kiện sau đây (OECD, 1995: 49):

- Đã tốt nghiệp đại học hoặc cao đẳng về một lĩnh vực KH&CN;

- Tuy chưa đạt được điều kiện nêu trên, nhưng làm việc trong một lĩnh vực KH&CN đòi hỏi phải có trình độ tương đương.

Thứ hai, theo UNECO thì nhân lực KH&CN được xác định như “…tổng số những người tham gia trực tiếp vào hoạt động KH&CN và các dịch vụ KH&CN trong một tổ chức hoặc một đơn vị. Nhóm này gồm cả những nhà khoa học và kỹ sư, kỹ thuật viên và nhân lực hỗ trợ …”.

Theo quan điểm của Bộ Khoa học và Công nghệ có 05 lực lượng làm khoa học và công nghệ:

- Nhân lực KH&CN làm quản lý KH&CN.

- Nhân lực KH&CN làm việc trong các tổ chức KH&CN: các viện nghiên cứu, trường đại học, trung tâm nghiên cứu KH&CN.

- Nhân lực KH&CN tại các doanh nghiệp.

- Nhân lực KH&CN trong xã hội: là những người dân có sáng kiến cải tiến, có lòng yêu KH&CN và tìm các biện pháp áp dụng khoa học và kỹ thuật vào đời sống.

- Nhân lực KH&CN là người Việt Nam đang công tác, sinh sống tại nước ngoài.

Thuật ngữ “nhân lực KH&CN” hàm chỉ đội ngũ lao động có trình độ tay nghề trở lên. Thuật ngữ này đôi khi tương đồng với thuật ngữ nhân lực KH&CN (scientific and technological manpower hay personnel). Tuy nhiên, có trường hợp quan niệm không tương đồng bởi có người quan niệm nhân lực KH&CN bao gồm đội ngũ có tay nghề hay trình độ đang hoạt động trong nền kinh tế. Còn nguồn nhân lực KH&CN thì còn có thêm lực lượng tiềm năng về tay nghề/trình độ (UNESCO). Trong khi đó, OECD coi nguồn nhân lực KH&CN tương đồng với nhân lực KH&CN và bao gồm cả lực lượng hiện đang hoạt động cũng như ở dạng tiềm năng.

- Theo UNESCO, nhân lực KH&CN là “những người trực tiếp tham gia vào hoạt động KH&CN trong một cơ quan, tổ chức và được trả lương hay thù lao cho lao động của họ, bao gồm các nhà khoa học và kỹ sư, kỹ thuật viên và nhân lực phù trợ…”. Hoạt động KH&CN, theo UNESCO, là những hoạt động có tính chất hệ thống và liên quan chặt chẽ đến việc tạo ra, phát triển, phổ biến, áp dụng kiến thức KH&CN trong mọi lĩnh vực KH&CN. Hoạt động KH&CN bao gồm hoạt động nghiên cứu triển khai, giáo dục và đào tạo KH&CN và các dịch vụ KH&CN. Dịch vụ KH&CN bao gồm các hoạt động KH&CN của thư viện và bảo tàng, dịch và hiệu đính tài liệu KH&CN; điều tra, thăm dò, thu thập số liệu về các hiện tượng kinh tế xã hội; tiêu chuẩn, chất lượng, dịch vụ tư vấn và lấy ý kiến khách hàng, các hoạt động patent và bản quyền của các cơ quan công cộng.

Khái niệm về nhân lực KH&CN của UNESCO không bao hàm đội ngũ KH&CN dạng tiềm năng. Vì vậy, ngoài nhân lực KH&CN theo định nghĩa

trên, UNESCO còn thu thập hai nhóm số liệu khác, đó là “các kỹ sư và nhà khoa học tiềm năng” “các kỹ thuật viên tiềm năng” là những người nằm trong tổng vốn nhân lực hay những người thuộc lực lượng hoạt động kinh tế có bằng cấp của nhà khoa học/kỹ sư/kỹ thuật viên.

UNESCO định nghĩa nhân lực KH&CN không theo bằng cấp mà theo công việc hiện đang đảm nhận.

OECD đưa ra định nghĩa về nhân lực dựa trên trình độ và công việc.


Theo OECD, nhân lực KH&CN bao gồm những người đáp ứng được một trong các điều kiện sau:

Đã tốt nghiệp trường đào tạo trình độ nhất định nào đó về một chuyên môn KH&CN (từ công nhân có bằng cấp tay nghề trở lên hay còn được gọi là trình độ 3 – giáo dục phổ thông bậc cao, trong hệ giáo dục đào tạo).

Không được đào tạo chính thức như đã nói ở trên nhưng làm một nghề trong lĩnh vực KH&CN mà đòi hỏi trình độ trên. Kỹ năng tay nghề ở đây được đào tạo tại nơi làm việc.

Như vậy, theo OECD, nhân lực KH&CN là sự tổng hợp cả 2 tiêu chí bao

gồm:


- Những người có bằng trình độ tay nghề trở lên và làm việc trong lĩnh

vực KH&CN;


- Những người có bằng trình độ tay nghề trở lên và không làm việc trong lĩnh vực KH&CN;

- Những người được coi là có trình độ tay nghề làm việc trong lĩnh vực KH&CN nhưng không có bằng cấp…

Ngoài ra, còn có những người làm việc trong lĩnh vực KH&CN với trình độ kỹ năng thấp, không ở mức ngang bằng với những người có trình độ tay nghề cũng được tính vào nguồn nhân lực KH&CN.

Như vậy, theo cách định nghĩa này, tất cả những ai có bằng cấp nghề nghiệp trở lên bất kể họ có sử dụng kiến thức đã học vào nghề của mình hay không, hay kiến thức của họ có được bổ túc sau một thời gian dài hay không đều được coi là nguồn nhân lực KH&CN. Nhân lực KH&CN ở đây được hiểu theo nghĩa rất rộng, nó đề cập đến toàn bộ đội ngũ tiềm tàng/tiềm năng chứ không chỉ đội ngũ hay vốn nhân lực KH&CN đang tham gia hoạt động KH&CN.

So với định nghĩa của OECD, định nghĩa của UNESCO có chỗ rộng hơn nhưng lại có chỗ hẹp hơn. UNESCO đưa ra định nghĩa chỉ dựa vào hoạt động hiện tại để xác định nhân lực KH&CN mà không dựa vào trình độ, trong khi đó OECD đưa ra định nghĩa dựa trên cả hai. Điểm rộng hơn trong định nghĩa của UNESCO là ở chỗ nhân lực KH&CN còn bao hàm cả đội ngũ nhân lực phù trợ, trong khi OECD không tính bộ phận này là nhân lực KH&CN, trừ trường hợp họ có bằng cấp. Còn điểm hẹp hơn là ở chỗ, UNESCO không tính những người có bằng cấp mà không hoạt động trong lĩnh vực KH&CN vào nhân lực KH&CN ([21], t.2, 3, 7).

Ở nước ta hiện chưa có một định nghĩa chính thức về nhân lực KH&CN hay nguồn nhân lực KH&CN. Luật KH&CN cũng như các văn bản hướng dẫn thống kê cũng chưa thấy đề cập đến thuật ngữ này dưới dạng một định nghĩa chính thức. Một số tác giả chia sẻ quan điểm với định nghĩa của UNESCO. Số khác lại đưa ra khái niệm nhân lực KH&CN là một bộ phận của lực lượng lao động xã hội được đào tạo ở những trình độ chuyên môn nghiệp vụ nhất định và tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào các hoạt động KH&CN từ nghiên cứu đến triển khai, đào tạo, quản lý và vận hành các hệ thống công nghệ (gần với định nghĩa của OECD, nhưng hẹp hơn).

Tuy nhiên, trên thực tế, khi thống kê nhân lực KH&CN, chúng ta chưa làm được việc thống kê theo nghề nghiệp mà mới thống kê theo trình độ đào tạo.

Việc đưa ra định nghĩa về nhân lực KH&CN phải xuất phát từ:

Xem tất cả 97 trang.

Ngày đăng: 19/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí