như: các thiệt bị, độ an toàn về kỹ thuật, các thông số kỹ thuật theo quy định của các phương tiện máy bay, tầu lượn...
4. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm
Cũng như đối với các tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông, người thực hiện hành vi đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không không bảo đảm an toàn là do vô ý (vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý vì cẩu thả, nhưng chủ yếu là vô ý vì quá tự tin).
Tuy nhiên, cũng như đối với tội đưa vào phương tiện giao thông
đường bộ, đường sắt hoặc đường thuỷ không bảo đảm an toàn, về nhận thức của người phạm tội trước khi thực hiện hành vi cho đưa vào phương
tiện giao thông đường không không bảo đảm an toàn họ phải biết rõ là
phương tiện đó không bảo đảm an toàn. Nếu vì lý do nào đó mà họ không biết hoặc không thể biết thì cũng chưa cấu thành tội phạm. Đây là quy định về lý luận, có ý kién cho rằng đối với tội phạm này người phạm tội thực hiện hành vi do cố ý, vì đã biết rõ là phương tiện không bảo đảm an toàn mà vẫn cho đưa vào sử dụng. Có thể nói người phạm tội cố ý thực hiện hành vi nhưng không mong muốn cho hậu quả xẩy ra nên cũng không thoả mãn các dấu hiệu về cố ý phạm tội.
Có thể bạn quan tâm!
- Phạm Tội Vi Phạm Quy Định Điều Khiển Tầu Bay Không Có Các Tình Tiết Định Khung Hình Phạt
- Phạm Tội Thuộc Một Trong Các Trường Hợp Sau Đây, Thì Bị Phạt Tù Từ Ba Năm Đến Mười Năm:
- Phạm Tội Thuộc Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 3 Điều 217 Bộ Luật Hình Sự
- Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 2 Điều 219 Bộ Luật Hình Sự
- Phạm Tội Vi Phạm Quy Định Về Duy Tu, Sửa Chữa, Quản Lý Các
- Bình luận khoa học bộ luật hình sự Tập 7 - Đinh Văn Quế - 22
Xem toàn bộ 321 trang tài liệu này.
B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1. Phạm tội đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường không không bảo đảm an toàn không có các tình tiết định khung hình phạt
Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 218 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường không không bảo đảm an toàn, người phạm tội có thể bị phạt tù từ một đến năm năm, là tội phạm nghiêm trọng.
So với Điều 188 Bộ
luật hình sự
năm 1985 quy định về tội phạm
này, thì khoản 1 Điều 218 Bộ luật hình sự năm 1999 nặng hơn, vì khoản 1 Điều 218 Bộ luật hình sự năm 1999 bỏ hình phạt cảnh cáo và hình phạt cải tạo không giam giữ là hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, mức tháp nhất của khung hình phạt cũng cao hơn khoản 1 Điều 188, nếu so sánh giữa Điều 188 Bộ luật hình sự năm 1985 với Điều 218 Bộ luật hình sự năm 1999 thì Điều 218 là điều luật nặng hơn. Vì vậy, hành vi phạm tội xảy ra trước 0
giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới xử lý thì áp dụng khoản 1 Điều 188 Bộ luật hình sự năm 1985.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 1 Điều 218 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể áp dụng mức thấp nhất của khung hình phạt ( một năm tù) hoặc chuyển sang hình phạt khác nhẹ hơn. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến năm năm tù.
2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 218 Bộ luật hình sự
Khác với khoản 2 của các điều luật quy định về trường hợp pham tội
đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông không bảo đảm an toàn,
khoản 2 Điều 218 Bộ luật hình sự được cấu tạo như khoản 1 của các điều luật quy định về các tội đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt và đường thuỷ không bảo đảm an toàn. Tức là hành vi đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không không bảo đảm an toàn mà gây thiệt hại cho tính mạng hoặc thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì đó là tình tiết là yếu tố định khung hình phạt.
Việc xác định thiẹt hại cho tính mạng hoặc thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác cũng tương tự như đối với các tội đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt và đường thuỷ không bảo đảm an toàn.
Trong khi chưa có hướng dẫn chính thức, chúng ta có thể căn cứ vào Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 đối với trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng để xác định thiệt hại cho tính mạng hoặc thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác do hành vi đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường không không bảo đảm an toàn gây ra.
Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ ba năm đến mười năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. So với Điều 188 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này thì khoản 2 Điều 218 Bộ luật hình sự năm 1999 là quy định mới không có lợi cho người phạm tội, nên không áp dụng đối với hành vi phạm tội xẩy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới xử lý.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 2 Điều 218 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có
nhưng mức độ
tăng nặng không đáng kể, thì có thể
được áp dụng dưới
mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới ba năm tù). Nếu có nhiều tình
tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết
giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến mười năm tù.
3. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 218 Bộ luật hình sự
Khoản 3 của điều luật chỉ
quy định một tình tiết là yếu tố
định
khung hình phạt đó là: “Gây hậu quả rất nghiêm trọng”.
Cũng như trường hợp gây thiệt hại cho tính mạng hoặc thiệt hại
nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, trong khi chưa có hướng dẫn chính thức về trường hợp phạm tội quy định tại khoản 3 của điều luật, có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC- VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của
Bộ luật hình sự
năm 1999 đối với trường hợp gây hậu quả
rất nghiêm
trọng để xác định hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường không không bảo đảm an toàn gây ra.
Phạm tội thuộc trường hợp quy định tạ khoản 3 của điều luật, thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ tám năm đến mười lăm năm, cũng là tội phạm rất nghiêm trọng. So với Điều 188 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này thì khoản 3 Điều 218 Bộ luật hình sự năm 1999 là quy định mới không có lợi cho người phạm tội, nên không áp dụng đối với hành vi phạm tội xẩy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày
1-7-2000 mới xử lý. Nếu người phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng thì vẫn áp dụng khoản 1 Điều 188 Bộ luật hình sự năm 1985.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 3 Điều 218 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có
nhưng mức độ
tăng nặng không đáng kể, thì có thể
được áp dụng dưới
mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới tám năm tù), nhưng không được dưới ba năm tù. Nếu có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến mười lăm năm tù.
4. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 218 Bộ luật hình sự
Khoản 4 của điều luật cũng chỉ quy định một tình tiết là yếu tố định khung hình phạt đó là: “Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”. khoản 4 của điều luật chính là khoản 2 Điều 188 Bộ luật hình sự năm 1985. Tuy nhiên, mức cao nhất của khung hình phạt nặng hơn khoản 2 Điều 188 Bộ luật hình sự năm 1985.
Cũng như trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng, trong khi chưa có hướng dẫn chính thức về trường hợp phạm tội quy định tại khoản 3 của điều luật, có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC- VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 đối với trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng để xác định hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường không không bảo đảm an toàn gây ra.
Phạm tội thuộc trường hợp quy định tạ khoản 4 của điều luật, thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. So với khoản 2 Điều 188 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này thì khoản 3 Điều 218 Bộ luật hình sự năm 1999 nặng hơn, nên không áp dụng đối với hành vi phạm tội xẩy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới xử lý.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 4 Điều 218 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có
nhưng mức độ
tăng nặng không đáng kể, thì có thể
được áp dụng dưới
mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới mười hai năm tù), nhưng không được dưới tám năm tù. Nếu có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến hai mươi năm tù.
5. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội
Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
So với Điều 218 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hình phạt bổ sung đối với tội phạm này thì khoản 5 Điều 218 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn vì mức thấp nhất của hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm ( Điều 218 Bộ luật hình sự năm 1985 là từ hai năm), nên đối với hành vi phạm tội xẩy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới xét xử thì Toà án áp dụng khoản 4 Điều 214 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội.
16. TỘI ĐIỀU ĐỘNG HOẶC GIAO CHO NGƯỜI KHÔNG ĐỦ ĐIỀU KIỆN ĐIỀU KHIỂN CÁC PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƯỜNG KHÔNG
Điều 219. Tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường không
1. Người nào điều động hoặc giao cho người không có bằng lái hoặc
không đủ các điều kiện khác theo quy định của pháp luật điều khiển
phương tiện giao thông đường không, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
2. Phạm tội gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.
3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng thì bị phạt tù từ tám năm đến mười lăm năm.
4. Phạm tội gây hậu quả mười hai năm đến hai mươi năm.
đặc biệt nghiêm trọng thì bị
phạt tù từ
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
Định Nghĩa:
Điều động hoặc giao cho người không đủ
điều kiện
điều khiển các phương tiện giao thông đường không là hành vi điều động hoặc giao cho người không có bằng lái hoặc không đủ các điều kiện khác theo quy định của pháp luật điều khiển các phương tiện giao thông đường không.
Tội phạm này cũng là tội phạm được tách từ tội “đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông vận tải không bảo đảm an toàn hoặc điều động người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông vận tải
gây hậu quả 1985.
nghiêm trọng” quy định tại Điều 188 Bộ
luật hình sự
năm
Tuy nhiên, Điều 219 Bộ luật hình sự năm 1999 thêm hành vi “giao”
và cấu tạo tương tự như Điều 218 Bộ luật hình sự năm 1999, ngoài khoản 5 quy định hình phạt bổ sung, điều luật được cấu to thành 4 khoản; bỏ hình
phạt cảnh cáo, hình phạt cải tạo không giam giữ là hình phạt chính; bổ
sung tình tiết: “không có bằng lái”; sửa đổi tình tiết “gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác” trước đây là tình tiết định tội nay là tình tiết định khung hình phạt, bổ
sung tình tiết “gây hậu quả
rất nghiêm trọng” là yếu tố
định khung hình
phạt; tăng hình phạt trong tất cả các khung hình phạt và hình phạt bổ sung được quy định ngay trong điều luật.
A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm
Cũng như
đối với tội đưa vào sử
dụng phương tiện giao thông
đường không không bảo đảm an toàn, chủ thể của tội phạm này cũng là chủ thể đặc biệt, chỉ có những người có trách nhiệm trong việc điều động người khác điều khiển phương tiện giao thông đường không mới có thể là
chủ thể của tội phạm này. Ngay cả đối với người không có trách nhiệm
trong việc điều động người khác điều khiển phương tiện giao thông đường
không, mà chỉ có hành vi giao cho người không đủ điều kiện điều khiển
cũng là chủ thể đặc biệt vì đối với phương tiện giao thông đường không, không phải ai cũng có thể điều khiển hoặc có trách nhiệm quản lý phương tiện này.
2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm này cũng là trật tự an toàn giao thông đường không.
Đối tượng tác động của tội phạm này là người điều khiển phương tiện giao thông đường không không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường không.
Người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông
đường không là người không có bằng lái hoặc không đủ các điều kiện khác theo quy định của pháp luật điều khiển phương tiện giao thông đường không. Ví dụ: Điều 30 Luật hàng không dân dụng Việt Nam quy định: “Thành viên tổ bay của tầu bay dân dụng Việt Nam phải có trình độ nghiệp vụ, sức khoẻ, hiểu biết phù hợp với công việc và chỉ được thực hiện chức năng của mình khi có bằng, chứng chỉ thích hợp đã được cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam cấp hoặc công nhận”. mới là người đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường không.
3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm
a. Hành vi khách quan
Người phạm tội này, là người thực hiện hành vi
điều động
hoặc
giao cho người không đủ đường không.
điều kiện điều khiển phương tiện giao thông
Điều động là ra lệnh, phân công, chỉ thị cho người khác. Điều động
người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường
không là ra lệnh, chỉ
thị
hoặc phân công những người bị
pháp luật cấm
điều khiển phương tiện giao thông đường không.
Giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao
thông đường không là giao phương tiện giao thông đường không cho những người bị pháp luật cấm điều khiển phương tiện giao thông đường không.
b. Hậu quả
Cũng như
đối với tội đưa vào sử
dụng phương tiện giao thông
đường không không bảo đảm an toàn, do tính chất nguy hiểm của hành vi này và yêu cầu của việc bảo đảm an toàn tuyệt đối các chuyến bay, nên
hậu quả cũng không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm
này, nếu hành vi điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường mà gây ra thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác thì
người phạm tội bị
truy cứu trách nhiệm hình sự
theo khoản 2 của điều
luật. Nếu gây hậu quả
rất nghiêm trọng hoặc hậu quả
đặc biệt nghiêm
trọng thì người phạm tội bị khoản 4 của điều luật.
truy cứu trách nhiệm hình sự
theo khoản 3,
c. Các dấu hiệu khách quan khác
Ngoài hành vi khách quan, đối với tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường không, nhà làm luật quy định một số dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm như: Điều kiện đối với người điều khiển phương tiện giao thông đường không. Các điều kiện này được quy định tại Luật hàng không dân dụng Việt Nam và các quy định của Chính phủ hoặc của Bộ giao thông vận tải về điều kiện đối với người điều khiển phương tiện giao thông đường không.
4. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm
Cũng như đối với các tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông,
người thực hiện hành vi điều động hoặc giao cho người không đủ điều
kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường không là do vô ý (vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý vì cẩu thả, nhưng chủ yếu là vô ý vì quá tự tin).
B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1. Phạm tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường không không có các tình tiết định khung hình phạt