Cho dù với bất cứ loại rủi ro nào thì các Ngân hàng cũng luôn tìm mọi cách để hạn chế rủi ro xảy ra và một khi xảy ra sẽ có thể xử lý được nó. Một trong các biện pháp chính là bảo đảm an toàn tín dụng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
1.2 nợ khó đòi và nguyên nhân
1.2.1 Nợ khó đòi
Nợ khó đòi là khoản nợ mà khách hàng không có khả năng chi trả cho Ngân hàng sau một thời gian kết thúc hợp đồng tín dụng.
Theo luật Ngân hàng hiện nay, nợ khó đòi hay còn gọi là nợ xấu là khoản nợ đã quá hạn 360 ngày và dư nợ tiền vay tuy chưa quá hạn vay nhưng đã xác định là bị mất (người vay chết, mất tích, doanh nghiệp phá sản, bị giải thể, bị khách hàng lừa đảo....). Ngoài ra, một bộ phận của khoản nợ quá hạn mà Ngân hàng phải trả nợ thay cho khách hàng trong các khoản bảo lãnh mở thế chấp nhập hàng trả chậm cũng coi là nợ khó đòi. Đối với những khoản nợ mà Ngân hàng phát hiện người vay không tuân thủ các hợp đồng tín dụng, có ý lừa đảo chiếm dụng vốn Ngân hàng trong thời gian sử dụng vốn thì cũng coi như nợ khó đòi.
Những dấu hiệu nhận biết một khoản vay có vấn đề có thể dẫn tới nợ khó đòi:
- Kỳ hạn của khoản vay bị thay đổi liên tục.
Có thể bạn quan tâm!
- Biện pháp hạn chế và xử lý nợ khó đòi tại Ngân hàng TMCP Hàng hải chi nhánh Hà nội - 1
- Khái Quát Chung Về Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải Hà Nội
- Tình Hình Hoạt Động Kinh Doanh Của Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải Hà Nội.
- Tình Hình Nợ Nợ Khó Đòi Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải Cahi Nhánh Hà Nội
Xem toàn bộ 75 trang tài liệu này.
- Tỷ lệ đòn bẩy (nợ) trên vốn cổ phần tăng.
- Thất lạc các tài liệu
- Tài sản thế chấp không đủ tiêu chuẩn.
- Không có báo cáo hay dự đoán về dòng tiền, trì hoãn trong việc cung cấp các thông tin cho Ngân hàng.
- Độ lệch giữa doanh thu dòng tiền thực tế so với mức dự kiến khi khách hàng xin vay.
- Khách hàng hoạt dộng thua lỗ trong một hoặc nhiều năm, đặc biệt thể hiện trên các chỉ số ROA, ROE, EBIT.
- Những thay đổi bất thường, ngoài dự kiến và không được giải thích trong số dư tiền gửi của khách hàng.
- Sự gia tăng của tài sản tồn kho, các khoản chịu chưa thu tiền, tài khoản ở ngân hàng luôn rút quá số dư.
- Các dấu hiệu khác.
Từ việc nhận biết các đấu hiệu trên, Ngân hàng cần thực hiện các biện pháp kiểm soát chặt chẽ hơn nhằm hạn chế tối đa khả năng rủi ro có thể xảy ra. Khi phát hiện các khoản vay có vấn đề có thể phát sinh nợ khó đòi, Ngân hàng sẽ giao việc thu hồi nợ cho những chuyên gia thu hồi nợ. Những người này sẽ điều tra tìm ra nguyên nhân và tìm các giện pháp xử lý thích hợp nhằm thu hồi vốn đến mức tối đa có thể.
1.2.2 Phân loại nợ khó đòi.
Nợ khó đòi là điều kiện không lành mạnh của quá trình hoạt động tín dụng của các NHTM, báo hiệu sự rủi ro đối với khách hàng và Ngân hàng.
Nợ khó đòi có nhiều hình thức khác nhau, căn cứ vào các tiêu thức khác nhau ta có thể phân chúng thành các loại sau:
trị.
Căn cứ vào khả năng thu hồi:
- Nợ khó đòi có khả năng thu hồi 100%(rất ít).
- Nợ khó đòi thu hồi được một phần.
- Nợ khó đòi mất trắng hoàn toàn.
Căn cứ vào mức độ đảm bảo:
- Nợ khó đòi được bảo đảm một phần: giá trị TSTC, cầm cố còn một phần giá
- Nợ khó đòi không được đảm bảo: không có tài sản đảm bảo, người vay chết,
mất tích, doanh nghiệp phá sản, giải thể...
Việc phân loại này có ý nghĩa quan trọng để từ đó đề ra các biện pháp xử lý phù hợp.
1.2.3 Nguyên ngân gây nên nợ khó đòi.
Nguyên nhân gây nợ khó đòi trong kinh doanh tín dụng rất nhiều, rất đa dạng, song nhìn chung chúng có thể được xếp vào các nguyên nhân chính sau:
Vốn tín dụng ngân hàng bao cấp cho doanh ngiệp
Nhiều doanh ngiệp hoạt động bằng vốn vay NHTM chiếm tỷ trọng lớn trong vốn lưu động. Chúng ta biết rằng vốn tín dụng NHTM, bản thân nó mang tính chất ứng trước cho doanh nghiệp hạt động liên tục và chỉ mang tính bổ xung, nhưng tính ứng trước càng trực tiếp, số tiền ứng trước càng lớn thì rủi ro vốn vay càng nhiều. Có thể nói, hầu như các chi phí sản xuất hoặc dự trữ hàng hoá , dịch vụ của doanh nghiệp không tiêu thụ được, NHTM cho vay vốn sẽ không thu hồi được nợ. Vốn ngân hàng bị đọng, thế rồi giãn nợ, khoanh nợ, miễn giảm lãi suất...Ngân sách giảm, NHTM phải trích dự phòng rủi ro, vừa giảm cho thu nhập cho cán bộ ngân hàng, vừa giảm thuế thu nhập cho ngân sách Nhà nước.Tính bao cấp thể hiện rất rõ ở chỗ này.
NHTM sử dụng vốn huy động không hợp
Nhiều NHTM nhất là NHTM quốc doanh dùng vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn cả các doanh nghiệp quốc doanh lẫn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nhiều NHTM còn cho vay trung và dài hạn bằng ngoại tệ huy động ngắn hạn. Doanh nghiệp sử dụng khoản vay này để nhập thiết bị máy móc lạc hậu hoặc giá quá cao. Dẫn tới việc nhiều doanh nghiệp không có khả năng trả nợ ngân hàng, tất nhiên phải xỷ lý tình thế, nên thời hạn nợ càng bị kéo dài hơn, trong khi đó có một phần nợ là vốn huy động ngắn hạn. Do đó gây tiềm ẩn rủi ro thanh khoản cho NHTM.
NHTM cho vay nhận TSTC là bất động sản
Hầu hết các NHTM khi cho vay đều nhận TSTC là bất động sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ( nhà xưởng, công trình,..). Tuy nhiên khi phát sinh nợ quá hạn buộc phải xử lý TSTC thì việc phát mại xử lý gặp khó khăn nhiều khi không thể giải quyết được do:
+ Thủ tục pháp lý rất phức tạp tốn nhiều thời gian.
+ Hồ sơ giấy tờ TSTC là quyền sử dụng đất không rõ ràng; nhiều mảnh đất không phân biệt rõ ràng giữa người sở hữu, chủ quản với người quản lý sử dụng, rất nhiều mảnh đất có giấy tờ xác minh không rõ ràng (có trường hợp mảnh đất đã đem thế chấp vay vốn Ngân hàng với giấy tờ pháp lý đầy đủ, song người vay vẫn bán được mảnh đất đó, khi Ngân hàng tiến hành điều tra thì chủ mới vẫn có giấy tờ về quyền sử dụng đất hoàn toàn hợp lệ. )
+ Giá trị đánh giá tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất quá cao; sự sụt giảm giá đất . Điều này dẫn tới việc khi khách hàng không có khả năng trả nợ Ngân hàng buộc Ngân hàng phải phát mãi TSTC thì không thể thu hồi đủ vốn, hoặc không bán Ngân hàng không có khả năng kinh doanh. Nếu nhận lại tài sản thế chấp là bất động sản, NHTM không có nguồn vốn để hạch toán mua tài sản thì nợ quá hạn tăng vì không thể hạnh toán kế toán nội bảng được
+ Trong một số trường hợp NHTM cho vay với TSTC là giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất. Trong trường hợp người vay không trả nợ Ngân hàng thì Ngân hàng không thể thu hồi được vốn bằng việc quản lý mảnh đất đó, hoặc đến một thời gian sau đó chia lại rưộng đất thì có thể Ngân hàng mất trắng quyền quản lý mảnh đất đó.
Cho vay có giá trị vật tư tương đương.
Các NHTM cho vay còn lấy giá trị vật tư, tài sản hình thành từ vốn vay để làm tài sản đảm bảo tiền vay. Đây là một trong những nguyên nhân tạo nên nợ khó đòi cho NHTM, vì giá cả luôn luôn có xu hướng biến động giảm, do cạnh tranh về mẫu mã và tính năng của hàng hoá luôn được nâng cao...
Cho vay, nhận TSTC mà pháp luật cấm
Điều này ít khi xảy ra nhưng không phải là không có. Nguyên nhân chính là do năng lực của cán bộ tín dụng ngân hàng kém. Trong một số trường hợp các doanh nghiệp nhà nước đem tài sản của Nhà nước ra cầm cố thế chấp vay vốn Ngân hàng (như các mảnh đất thuộc sở hữu nhà nước) thì Ngân hàng không có quyền quản lý sử dụng mảnh đất đó khi khách hàng không có khả năng trả nợ. Luật pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định: "Tài sản của Đảng cộng sản Việt Nam là tài sản bất khả xâm phạm".
1.2.4 Tác hại của nợ khó đòi. Đối với NHTM
Một khi ở NHTM có các khoản nợ khó đòi chiếm tỷ lệ cao sẽ làm ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Từ những khoản vay mà không đòi lại được sẽ dẫn tới tình trạng mất vốn, giảm lợi nhuận, huy động tiền gửi sẽ tụt giảm nhanh. Khi có nợ khó đòi xảy ra sẽ làm Ngân hàng không thu hồi được vốn, vòng quay vốn tín dụng chậm, tốc độ chu chuyển vốn giảm sẽ dẫn tới giảm hiệu quả sử dụng vốn và hiệu quả kinh doanh. Nợ khó đòi còn làm Ngân hàng phải tăng chi phí, mất nhiều thời gian công sức để xử lý, giải quyết và quan trọng hơn là giảm khả năng cạnh tranh của Ngân hàng. Những khoản nợ khó đòi không thể thu hồi được ngân hàng phải trích vốn chủ sở hữu ra để bù lỗ, vì thế làm giảm vốn chủ sở hữu của Ngân hàng. Nợ khó đòi phát sinh làm giảm tỷ trọng vốn chủ sở hữu của Ngân hàng trong tổng nguồn vốn, Ngân hàng không đáp ứng được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu cho hoạt động kinh doanh do phải trích dự phòng rủi ro. Điều này dẫn tới tình trạng Ngân hàng kinh doanh trong vòng nguy hiểm. Trong nhiều trường hợp nợ khó đòi là nguyên nhân chính dẫn tới sự phá sản của không ít NHTM. Rủi ro tín dụng mà cụ thể là do nợ khó đòi gây nên là rủi ro chính dẫn tới sự phá sản ngân hàng.
Đối với nền kinh tế
Nền kinh tế gồm nhiều các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, hộ buôn bán... Khi vốn tín dụng đến tay họ nếu sử dụng không tốt sẽ làm giảm lợi nhuận gây nợ quá hạn, trong nhiều trường hợp gây nên nợ khó đòi. Một khi xảy ra tình trạng này sẽ làm cho nền kinh tế nói chung, các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế nói riêng có các tác động xấu: Làm giảm hiệu quả điều tiết vĩ mô nền kinh tế của nhà nước, ngăn cản NHTM thực hiện chức năng trung gian và cung cấp vốn cho nền kinh tế, gây tình trạng rối loạn lưu thông tiền tệ.
Một ngân hàng có tỷ trọng nợ khó đòi lớn có thể dẫn tới sự sụp đổ của Ngân hàng đó. Sự sụp đổ của một NHTM trong hệ thống các NHTM tác động đe doạ sự tồn tại của các NHTM khác nhiều khi có thể kéo theo sự sụp đổ dây truyền của nhiều NHTM trong cùng hệ thống. Sự sụp đổ này sẽ làm rối loạn lưu thông tiền tệ,
dẫn tới đình trệ sản xuất kinh doanh, gây khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Sự tác động này không chỉ ảnh hưởng tới phạm vi quốc gia mà nó còn ảnh hưởng tới nền kinh tế các quốc gia có liên quan, ảnh hưởng tới nền tài chính thế giới.
1.3 Một số phương pháp xử lý nợ khó đòi
1.3. ý nghĩa của việc xử lý nợ khó đòi.
Đối với ngân hàng : Xử lý nợ khó đòi sẽ giúp các NHTM khơi thông được nguồn vốn, tạo điều kiện cho nguồn vốn bị ứ đọng phát huy được tác dụng của nó, mang lại lợi ích cho Ngân hàng. Việc xử lý nợ khó đòi sẽ giúp các Ngân hàng thu hồi được một phần lượng vốn đã mất do khách hàng không trả được nợ và giảm được chi phí cho nguồn vốn cho vay không thu lãi nhưng vẫn trả lãi cho phần tiền gửi của dân chúng, các nguồn vốn này có thể đầu tư vào các dự án khác mang lại lợi nhuận cho Ngân hàng. Hơn nữa xử lý nợ khó đòi hay nói cách khác là xử lý các tài sản thế chấp giúp các Ngân hàng thương mại giảm được chi phí do việc bảo quản, bảo dưỡng tài sản thế chấp khi các tài sản này phải ngừng hoạt động để đưa vào thu nợ. Việc xử lý được các khoản nợ khó đòi là một biện pháp tạo đà đẩy nhanh tiến trình lành mạnh hóa hoạt động tài chính của các tổ chức tín dụng. Đối với những khoản nợ khó đòi không có khả năng thu hồi, thì Ngân hàng loại ra khỏi bảng tổng cân đối tài sản và trích dự phòng rủi ro ra để bù đắp, qua đó làm giảm tỷ lệ nợ quá hạn, nợ khó đòi và là điều kiện cần thiết giúp Ngân hàng duy trì hoạt động kinh doanh một cách bình thường.
Đối với khách hàng
Tâm lý khách hàng vay vốn Ngân hàng đều muốn kinh doanh có hiệu quả, thu được lợi nhuận để trả nợ Ngân hàng. Không ai muốn rủi ro để phải trở thành con nợ vay vốn Ngân hàng không có khả năng trả nợ. Ngân hàng xử lý được nợ khó đòi sẽ giúp khách hàng hoàn thành nghĩa vụ trả nợ của mình, qua đó giảm nghĩa vụ trả nợ Ngân hàng. Và điều quan tọng hơn giúp các khách hàng tránh phải ra hầu toà do không trả nợ được Ngân hàng. Như vậy khách hàng vẫn giữ được uy tín, đặc biệt là các khách hàng lớn. Trong kinh doanh uy tín là điều tối quan trọng và là tài sản vô hình phải mất nhiều thời gian công sức mới tạo nên được.
1.3.2 Tài sản đảm bảo, vai trò của tài sản đảm bảo.
Tài sản đảm bảo là tài sản được người đi vay dùng để bảo đảm cho khoản vay của mình tại Ngân hàng bằng cách trao cho Ngân hàng giấy tờ sở hữu tài sản hoặc trao tài sản cho Ngân hàng và xác nhận quyền phát mại tài sản khi khách hàng không trả được nợ.
Muốn dùng tài sản để thế chấp Ngân hàng vay vốn thì trước hết phải có quyền sở hữu tài sản đó. Quyền sở hữu tài sản bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt. Chủ sở hữu có thể là cá nhân, thể nhân hoặc các chủ thể khác. Tuy nhiên không phải bất kỳ tài sản nào cũng có thể đem thế chấp Ngân hàng làm tài sản đảm bảo, nó tuỳ thuộc vào quy định của pháp luật và khả năng chuyển đổi thành tiền nhanh nhất, dễ dàng nhất, ít chịu tác động của ngoại cảnh, ít bị giảm giá trị theo thời gian....
Đối với Ngân hàng việc nắm giữ tài sản đảm bảo nhằm đáp ứng được các mục tiêu: Nếu người vay không có khả năng trả thì Ngân hàng có quyền thu giữ tài sản để bán tài sản thu hồi nợ và tạo tâm lý an tâm cho khoản tiền mình cho vay. Bởi vì với người vay do bị nắm giữ tài sản nên họ cảm thấy cần phải làm việc tích cực hơn để thanh toán khoản nợ của mình tránh khả năng bị mất tài sản có giá trị.
Mục tiêu của việc Ngân hàng nắm giữ tài sản đảm bảo là nhằm xác định rõ những tài sản mà Ngân hàng có thể phong toả và bán, đồng thời thông báo cho các tổ chức khác biết Ngân hàng có quyền hợp pháp trong việc phát mại tài sản nếu khách hàng không có khả năng hoàn trả khoản vay. Ngân hàng là chủ nợ ưu tiên đối với giá trị thu được từ việc phát mại tài sản thế chấp. Đây là nguồn thu hồi vốn thứ hai của Ngân hàng. Tuy nhiên không được quá xem trọng tài sản thế chấp khi xét duyệt cấp tín dụng mà điều quan trọng là phải thẩm định chắc chắn tính khả thi của dự án kinh doanh khách hàng trình Ngân hàng. Thực tế cho thấy trong nhiều trường hợp dự án kinh doanh của khách hàng rất khả thi và gần như chắc chắn đem lại lợi nhuận nhưng khách hàng lại không có hình thức bảo đảm nào và bị Ngân hàng từ chối. Điều đó không chỉ mất cơ hội kinh doanh của khách hàng mà còn cả của Ngân hàng nữa.
1.3.2 Các hình thức bảo đảm tín dụng Ngân hàng.
Bảo đảm tín dụng được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng nhìn chung có thể chia thành hai loại: Bảo đảm đối nhân và bảo đảm đối vật.
Boả đảm đối nhân:
Với hình thức này Ngân hàng có thể cho khách hàng vay dựa trên những khả năng của khách hàng không cần đưa bất kỳ tài sản nào bảo đảm cho khoản vay mà thay vào đó là bảo đảm bằng uy tín của khách hàng hoặc uy tín hay cam kết trả nợ thay khách hàng của người thứ ba.
* Bảo đảm bằng uy tín - hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đây là hình thức Ngân hàng cho khách hàng vay dựa vào uy tín của người vay mà không cần trao cho Ngân hàng bất kỳ tài sản nào làm tin. Để thực hiện được hình thức này Ngân hàng cần xem xét khách hàng trên các khía cạnh sau: Tình hình tài chính của khách hàng, khả năng thanh toán các khoản nợ, năng lực kinh doanh, năng lực quản lý, lợi nhuận, sự kinh doanh phát triển và ổn định... Mặt khác còn được thể hiện về tín nhiệm trong việc thanh toán các khoản nợ trước đây, luôn có số dư tiền gửi lớn tại Ngân hàng, Ngân hàng có thể kiểm soát được tình hình tài chính của khách hàng một cách liên tục. Để vay được những tiền Ngân hàng dưới hình thức này thông thường người vay phải thực hiện rất nhiều những điều kiện ràng buộc từ phía Ngân hàng để tránh việc kinh doanh mạo hiểm của khách hàng có thể dẫn tới rủi ro.
Hình thức bảo đảm này thúc đẩy mối quan hệ làm ăn lâu dài giữa Ngân hàng và khách hàng, giảm bớt được chi phí cũng như quy trình tín dụng khi thực hiện khoản vay. Tuy nhiên khả năng xảy ra rủi ro đối với Ngân hàng lớn.
* Bảo lãnh
Bảo lãnh vay vốn Ngân hàng là việc người thứ ba (pháp nhân hoặc thể nhân gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên cho vay (bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện trả thay cho bên vay vốn (bên được bảo lãnh) nếu khi đến hạn mà bên được bảo lãnh không trả toàn bộ hay một phần nợ cho bên nhận bảo lãnh (gốc, lãi và lãi phạt) khi hết thời hạn hợp đồng tín dụng. Bên bảo lãnh thực hiện bảo lãnh bằng tài sản ( cầm cố, thế chấp) hay bằng uy tín của mình.