Biện Pháp Bắt Người Đang Bị Truy Nã Ở Một Số Nước

bị bắt là tội phạm nguy hiểm đang bị truy nã, nếu sai cá nhân đồng chí này xin chịu trách nhiệm trước pháp luật để đề nghị Viện kiểm sát cho kéo dài thời hạn tạm giữ [54].

Để đảm bảo việc giam giữ người theo đúng quy định của pháp luật, ngày 07/01/1995, TANDTC, VKSNDTC và Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư liên ngành số 03/TTLN hướng dẫn thực hiện một số quy định về truy nã bị can, bị cáo trong giai đoạn truy tố và xét xử để khắc phục bất cập nêu trên:

Để đảm bảo việc giam giữ người phải có lệnh, thì sau khi lấy lời khai, CQĐT áp dụng Điều 68 BLTTHS ra lệnh tạm giữ đối với bị can và giải ngay người đó đến trại tạm giam gần nhất. Trại tạm giam có trách nhiệm tiếp nhận và giam giữ bị can. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được thông báo của CQĐT về kết quả truy nã là đã bắt được bị can, thì Viện kiểm sát đã yêu cầu truy nã phải ra ngay quyết định tạm giam đối với bị can và tiếp tục tiến hành các công việc theo thủ tục chung nhằm đảm bảo việc giam giữ người bị truy nã theo đúng pháp luật... [39].

Tuy nhiên các quy định trên đây có tính "vượt rào" các quy định của BLTTHS năm 1988. Qua thực tiễn áp dụng pháp luật đã phân tích trên đây cho thấy, các quy định của pháp luật TTHS về bắt người đang bị truy nã trong giai đoạn này còn chưa thống nhất, văn bản có hiệu lực pháp lý thấp còn chưa phù hợp với văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn.


1.3. BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI ĐANG BỊ TRUY NÃ Ở MỘT SỐ NƯỚC


Trong hệ thống pháp luật hình sự và pháp luật TTHS của các nước trên thế giới đều có chế định và chế tài đối với hành vi phạm tội bỏ trốn, cũng như trách nhiệm của cơ quan chức năng trong việc tìm kiếm, bắt giữ những tội phạm đang trốn tránh pháp luật. Tuy nhiên ở các nước, việc quy định về truy nã người phạm tội lẩn trốn có nội dung đề cập khác nhau.

Luật TTHS của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thông qua năm 1979 và sửa đổi năm 1996 gồm bốn phần: Những quy định chung; khởi

tố, điều tra, truy tố; xét xử và thi hành án. Trong đó các vấn đề về thẩm quyền, trình tự, thủ tục truy nã được quy định tại Điều 63:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 150 trang tài liệu này.

Bất cứ người nào nêu dưới dây cũng có thể bị bắt giữ ngay lập tức bởi bất kỳ công dân nào và giao cho cơ quan Công an, Viện kiểm sát nhân dân hoặc Tòa án nhân dân xử lý:

- Bất kỳ ai đang phạm tội hoặc bị phát hiện ngay sau khi có hành vi phạm tội;

Biện pháp bắt người đang bị truy nã trong luật tố tụng hình sự Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn - 7

- Người đang bị truy nã;

- Người trốn khỏi nơi giam;

- Đang bị truy bắt.

Hoặc tại Mục 8 dành riêng cho vấn đề truy nã, theo đó:

Nếu bị can cần phải bắt giam bỏ trốn, cơ quan Công an có thể ban hành lệnh truy nã và tiến hành những biện pháp hữu hiệu để truy bắt và đưa ra trước công lý.

Cơ quan Công an ở bất kỳ cấp nào cũng có thể ban hành lệnh truy nã trong khu vực mình quản lý, nếu vượt quá khu vực mình quản lý thì có thể yêu cầu cơ quan cấp trên có thẩm quyền ra quyết định [45].

Có thể thấy, các quy định của luật TTHS nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có rất nhiều điểm giống với quy định của pháp luật TTHS nước ta về BPNC bắt người đang bị truy nã.

Theo Luật TTHS của cộng hòa Liên bang Nga xác định: Truy nã là một hoạt động điều tra nhằm phát hiện, tìm kiếm người phạm tội lẩn trốn ở các giai đoạn hình thành, chuẩn bị gây án, tội phạm đã xảy ra, tội phạm đang trong thời kỳ xét xử, tội phạm đang bị dẫn giải, đang bị thi hành án. Hoạt động truy nã là chức năng của CQĐT, cơ quan trinh sát. Người bị tình nghi,

bị can trốn tránh việc điều tra ban đầu, điều tra dự thẩm hoặc xét xử thì Điều tra viên, Dự thẩm viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán trong phạm vi thẩm quyền được giao có quyền áp dụng một trong những BPNC (Điều 97). Hoặc khi người bị tình nghi, bị can trốn tránh CQĐT hoặc Tòa án thì bị tạm giam; Tòa án chỉ được ra quyết định áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can vắng mặt khi đã có lệnh truy nã quốc tế (Điều 108).

Khi người bị tình nghi, bị can trốn tránh việc điều tra hoặc chưa xác định bị can đang ở đâu theo những nguyên nhân khác thì phải tạm đình chỉ điều tra dự thẩm (Điều 208). Sau khi tạm đình chỉ điều tra dự thẩm thì Dự thẩm viên xác định nơi cư trú của người bị tình nghi, bị can, nếu họ trốn tránh thì áp dụng các biện pháp truy nã họ (Điều 209). Điều 210 điều chỉnh riêng vấn đề truy nã. Theo đó:

- Nếu không rõ nơi cư trú của người bị tình nghi, bị can thì Dự thẩm viên giao cho các CQĐT ban đầu tiến hành truy nã họ, việc này được nêu rõ trong quyết định tạm đình chỉ điều tra dự thẩm hoặc ra quyết định riêng.

- Việc truy nã người bị tình nghi, bị can có thể được thông báo trong thời gian tiến hành điều tra dự thẩm hoặc đồng thời với việc tạm đình chỉ điều tra dự thẩm.

- Khi phát hiện thấy bị can, có thể áp dụng biện pháp tạm giữ.

- Khi có những căn cứ quy định tại Điều 97 thì có thể áp dụng BPNC đối với người bị truy nã. Trong những trường hợp quy định tại Điều 108 thì có thể áp dụng BPNC với hình thức tạm giam đối với họ.

Khi bị can bỏ trốn và không biết được họ đang ở đâu thì Thẩm phán ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án (Điều 238). Khi xét xử, sự có mặt của bị cáo là bắt buộc, tuy nhiên, đối với các vụ án rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng vẫn có thể tiến hành xét xử vắng mặt bị cáo, nếu họ đang ở nước ngoài và (hoặc) cố tình trốn tránh đồng thời họ không bị nước ngoài truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm này (Điều 247)...

Nếu bị cáo trốn tránh cũng như trong trường hợp bị cáo do bị tâm thần hoặc bị bệnh nặng khác mà không thể tham gia xét xử, trừ trường hợp theo đề nghị của các bên và khi có căn cứ quy định tại Điều 247 thì Tòa án tạm đình chỉ xét xử đối với bị cáo đó cho đến khi truy nã được họ hoặc đến khi người đó khỏi bệnh và vẫn tiếp tục tiến hành xét xử đối với những bị cáo khác. Nếu việc xét xử riêng cản trở đến việc giải quyết vụ án thì tạm đình chỉ toàn bộ việc xét xử. Tòa án ra quyết định truy nã bị cáo bỏ trốn (Điều 253) [47].

Theo Luật TTHS của nước cộng hòa dân chủ Đức trước đây xác định: Truy nã là việc tìm kiếm có kế hoạch, có mục đích đối với con người bằng cách thực hiện các biện pháp chiến thuật tác chiến và các biện pháp hành chính trong mối quan hệ gắn bó để xác định nhanh nhất về con người cần tìm góp phần ngăn chặn khám phá tội phạm, đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và an toàn cho từng người dân. Truy nã là nhiệm vụ của tất cả cán bộ chiến sĩ trong lực lượng, cơ quan của Bộ Nội vụ với sự phối hợp chặt chẽ với các lực lượng An ninh, Tư pháp, các cơ quan nhà nước và nhân dân lao động. Các hình thức truy nã bao gồm:

- Truy nã để bắt giữ thủ phạm đã rõ;

- Truy nã tội phạm chưa rõ tung tích;

- Truy nã để bắt đi chữa bệnh, tập trung giáo dục cải tạo;

- Truy nã để bắt giữ theo lệnh của Viện Kiểm sát, của Tòa án, khi đã có quyết định thi hành án phạt giam, phạm nhân được tại ngoại mà không trở lại cải tạo đúng hạn hoặc trốn khỏi trại;

- Truy nã người có lệnh trục xuất mà không chịu thi hành [46].

Ở Anh thì tất cả lực lượng cảnh sát đều được sử dụng các quyền hạn như nhau trong hoạt động điều tra và đều có quyền tiến hành các hoạt động truy tìm, truy nã, truy cập chứng cứ và thực hiện các biện pháp cưỡng chế đối với người bị tình nghi thực hiện tội phạm. Theo Luật TTHS của cộng hòa Pháp, lệnh truy nã được coi là một lệnh bắt giữ của Dự thẩm viên thực hiện

trong trường hợp: Khi không biết rõ nơi cư trú của đương sự và đương sự đã bỏ trốn thì Dự thẩm viên ra lệnh bắt giữ đối tượng đã bỏ trốn, nếu bắt được đương sự thì Dự thẩm viên ra tiếp lệnh áp giải.

Có thể nói ngày nay, truy nã người có hành vi phạm tội lẩn trốn đã trở thành vấn đề quốc tế và đã được quy định trong Luật TTHS, được thực hiện đối với các quốc gia trên thế giới. Địa bàn lẩn trốn của người phạm tội đang có xu hướng vượt khỏi biên giới quốc gia, nhất là những tên phạm tội nghiêm trọng mà hành vi lẩn trốn của chúng trong một số trường hợp đã phương hại đến lợi ích của nhiều quốc gia khác nhau. Cảnh sát hình sự quốc tế (Interpol) đã có quy ước chung cho các nước thành viên về 4 loại thông báo: "Thông báo đỏ" là đối tượng cần bắt truy nã; "Thông báo xanh da trời" là loại có tiền án, tiền sự nghiêm trọng, nếu nước nào phát hiện phải thông tin lại cho nước có thông báo; "Thông báo xanh lá cây" là đối tượng có tiền án, tiền sự cần chú ý; "Thông báo vàng" là đối tượng mất tích cần truy tìm.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1


Có thể thấy, Chương 1 của luận văn đã đi sâu nghiên cứu, phân tích, giải quyết khía cạnh lý luận về BPNC bắt người đang bị truy nã trong TTHS. Theo đó, luận văn đã lần lượt đi từ những vấn đề chung nhất: tìm hiểu về BPNC nói chung, BPNC bắt người đến vấn đề đang nghiên cứu là BPNC bắt người đang bị truy nã; đã đưa ra các quan điểm khác nhau về khái niệm bắt người đang bị truy nã và xây dựng nên một khái niệm. Đây là những vấn đề rất quan trọng trong việc nghiên cứu lý luận về bắt người đang bị truy nã.

Từ những vấn đề nêu trên, luận văn đã khái quát lịch sử của pháp luật TTHS Việt Nam về biện pháp bắt người đang bị truy nã cũng nhưng những quy định về vấn đề này của một số nước trên thế giới. Luận văn đã nêu một cách khái quát cơ sở pháp lý của công tác bắt người đang bị truy nã trong pháp luật TTHS, đó là tổng thể những văn bản quy phạm pháp luật quy định về truy nã người đang phạm tội lẩn trốn, là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan

hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động tìm kiếm, bắt giữ người phạm tội lẩn trốn theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, qua nghiên cứu, thấy rằng, chế định truy nã được hình thành từ lâu trong pháp luật TTHS của Nhà nước ta nhưng cho đến nay vẫn còn tản mạn, chưa tập trung; các quy định về truy nã trong luật TTHS chỉ mang tính khái quát; muốn tổ chức triển khai thi hành, các cơ quan chức năng phải ban hành văn bản hướng dẫn.

Chính vì vậy, việc nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện các quy định của luật cũng như để có những hướng dẫn ban hành BLTTHS mới đang là vấn đề rất được quan tâm trong thời điểm hiện nay và trong tương lai ở Việt Nam.

Chương 2

NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 VỀ BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI ĐANG BỊ TRUY NÃ

VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG


2.1. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 VỀ BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI ĐANG BỊ TRUY NÃ

Căn cứ vào thực tiễn thi hành BLTTHS năm 1988, quán triệt các chủ trương, chính sách lớn của Đảng đáp ứng yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đảm bảo các quyền đã được Hiến pháp và pháp luật quy định, ngày 26/11/2003 Quốc hội khóa XI tại kỳ họp thứ 4 đã thông qua BLTTHS năm 2003, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2004 và thay thế BLTTHS năm 1988, các luật sửa đổi, bổ sung năm 1990, năm 1992 và năm 2000. BLTTHS năm 2003 đã quy định chặt chẽ hơn việc áp dụng các BPNC trong đó có biện pháp bắt người đang bị truy nã. Chế định về truy nã tội phạm được quy định tại các Điều 34, 36, 48, 49, 50, 80, 82, 83, 86, 88, 112, 140, 160, 161, 166, 169, 187,

194, 256, 260, 303. Theo đó, có những sửa đổi, bổ sung phù hợp với thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người đang bị truy nã, thể hiện:

- Điều 34 khoản 2 điểm c quy định khi thực hiện điều tra vụ án hình sự, Thủ trưởng CQĐT có quyền ra QĐTN bị can.

- Điều 36 khoản 2 điểm c, Điều 112 khoản 5, Điều 166 khoản 2, Điều 169 khoản 2 điểm b quy định về yêu cầu CQĐT truy nã bị can của Viện trưởng Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự.

- Theo BLTTHS năm 1988 thì đối tượng bị tạm giữ chỉ có thể là những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang. Tuy vậy trên thực tế, để đảm bảo công tác điều tra, truy tố, xét xử thì đối với

những trường hợp người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc bị bắt theo lệnh truy nã, những người có thẩm quyền ra lệnh tạm giữ thường phải ra quyết định áp dụng biện pháp tạm giam đối với các đối tượng này. Vì vậy khoản 1 Điều 48 đã bổ sung đối tượng có thể bị áp dụng biện pháp tạm giữ là người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã.

- Điều 49 khoản 3 quy định về bị can: "Bị can phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã" [32].

- Điều 50 khoản 3 quy định về bị cáo: "Bị cáo phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án; trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã" [32].

So với BLTTHS năm 1988 thì BLTTHS năm 2003 đã bổ sung thêm chế tài nếu bị can, bị cáo bỏ trốn thì bị truy nã.

- Điều 80 khoản 3 quy định về bắt bị can, bị cáo để tạm giam: "Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này" [32].

Có thể thấy, Điều 80 của BLTTHS năm 2003 đã bổ sung quy định cho phép bắt người đang bị truy nã vào ban đêm để phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Quy định như vậy xuất phát từ việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam là bắt bình thường theo lệnh có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát hoặc theo Quyết định của Tòa án. Hơn nữa, việc thi hành lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam thường gắn với việc khám xét chỗ ở hoặc nơi làm việc của bị can, do đó, cần được tiến hành công khai và để bảo đảm trật tự, yên tĩnh trong ban đêm.

- Điều 82 quy định về bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã:

Đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt, cũng như người đang bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 30/10/2023