Bi kịch con người cá nhân trong tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần - Cao Ngạc - 2

“Thơ văn cổ Trung Hoa mảnh đất quen mà lạ” (1999) của Nguyễn Khắc Phi chú trọng tìm hiểu bút pháp “song quản tề hạ”, một bút pháp tiêu biểu góp phần làm rõ tính cách nhân vật. Tác giả cũng đã bàn đến vấn đề miêu tả tâm lí nhân vật trong tác phẩm.

“Mạn đàm về Hồng lâu mộng” của Trương Khánh Kiện, Lưu Vĩnh Lương do Nguyễn Phố dịch (2002) là những bàn luận khá sắc sảo và thấu đáo về tài năng miêu tả hiện thực một cách tỉ mỉ, chi tiết của tác giả. Tác giả đưa ra hai mươi tám vấn đề luận giải đầy hấp dẫn và có ý nghĩa với độc giả về số phận, cuộc đời người phụ nữ.

Thành tựu của những công trình nghiên cứu nói trên đã góp phần khẳng định những giá trị to lớn của “Hồng lâu mộng” về cả hai phương diện nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Qua khảo sát những bài viết của các tác giả, chúng tôi nhận thấy vấn đề bi kịch con người cá nhân trong “Hồng lâu mộng” là một trong những nội dung được quan tâm tìm hiểu nhằm làm rõ tư tưởng của tác giả trong tác phẩm, đó là một gợi ý hết sức quan trọng để chúng tôi xây dựng đề tài. Thành tựu của các công trình nghiên cứu nói trên là những tài liệu vô cùng quý báu, gợi ý cho chúng tôi thực hiện đề tài của khóa luận này.

PHẦN THỨ BA:

NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


3.1. Đối tượng nghiên cứu

Bi kịch con người cá nhân trong tiểu thuyết “Hồng lâu mộng” của Tào Tuyết Cần – Cao Ngạc.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Bộ tiểu thuyết “Hồng lâu mộng” của Tào Tuyết Cần – Cao Ngạc qua bản dịch của nhóm Bùi Hạnh Cẩn, Ngọc Anh, Kiều Liên dịch (2 tập), Nhà xuất bản Văn học, năm 2009.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 64 trang tài liệu này.

3.3. Nội dung nghiên cứu

Tìm hiểu bi kịch con người cá nhân trong “Hồng lâu mộng” qua hai bi kịch chính: bi kịch tình yêu và bi kịch tư tưởng.

Bi kịch con người cá nhân trong tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần - Cao Ngạc - 2

Một số biện pháp nghệ thuật xây dựng hình tượng con người cá nhân trong tác phẩm.

3.4. Phương pháp nghiên cứu

Để nghiên cứu đề tài nàychúng tôi sử dụng phối hợp các phương pháp sau:

3.4.1. Phương pháp thống kê – phân loại

Để tiến hành thống kê những chi tiết thể hiện bi kịch con người cá nhân trong tác phẩm, sau đó phân loại những dẫn chứng trên góc độ bi kịch tình yêu và bi kịch lí tưởng sống mới.

3.4.2. Phương pháp phân tích– tổng hợp

Tiến hành phân tích các dẫn chứng để phục vụ cho các luận điểm của đề tài, trên cơ sở đó, tổng hợp, khái quát, đánh giá vấn đề và rút ra kết luận.

3.4.3. Phương pháp so sánh – đối chiếu

So sánh – đối chiếu với các thiên tiểu thuyết cùng thời khác để thấy được sự kế thừa và đổi mới của tác phẩm.

3.4.4. Phương pháp cấu trúc – hệ thống

Do tác phẩm có dung lượng lớn (120 hồi), các tình tiết tản mạn nên việc sử dụng phương pháp cấu trúc – hệ thống giúp chúng tôi nghiên cứu một cách khoa học, có cái nhìn bao quát để từ đó tập trung hiệu quả vào vấn đề bi kịch con người cá nhân, tìm ra các biện pháp nghệ thuật đặc sắc khi xây dựng bi kịch con người cá nhân trong tác phẩm.

PHẦN THỨ TƯ: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU


4.1. KHÁI QUÁT VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM VÀ ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA TIỂU THUYẾT MINH – THANH

4.1.1. Vài nét về tác giả và tác phẩm

4.1.1.1. Tác giả Tào Tuyết Cần và Cao Ngạc


Tào Tuyết Cần (1716 – 1763?) tên thật là Tào Triêm, tự là Mộng

Nguyên, hiệu là Tuyết Cần, Cần Phố, Cần Khê, quê ở Liêu Dương, tổ tiên ông vốn là người Hán sau nhập tịch Mãn Châu. Ông là một nhà thơ, một nhà tiểu thuyết gia vĩ đại người Trung Quốc, tác giả của cuốn tiểu thuyết “Hồng lâu mộng” nổi tiếng.

Tào Tuyết Cần xuất thân trong một gia đình quan lại thuộc tầng lớp đại quý tộc thời nhà Thanh. Vào thời Tào Dần – ông nội Tào Tuyết Cần,

gia đình họ Tào hết sức thịnh vượng, vua Khang Hy năm lần đi kinh lý

phương Nam thì đã bốn lần trú tại nhà ông. Qua đó có thể thấy được cuộc

sống hào hoa và mối quan hệ

mật thiết giữa gia đình họ

Tào với hoàng

thất.Không chỉ là một hào môn vọng tộc, gia đình Tào Tuyết Cần còn có truyền thống về văn chương thi phú. Tào Dần là người lưu giữ sách nổi tiếng thời đó, chính Tào Dần là người đứng ra hiệu đính và in ấn bộ “Toàn Đường Thi” nổi tiếng, ông còn là tác giả bộ “Luyện đình thi sao” và nhiều trước tác khác.

Đến thời Ung Chính thứ 5 (1729), cha của Tào Tuyết Cần là Tào

Diệu bị cách chức với tội danh hành vi bất đoan, nhũng nhiễu dịch trạm, thiếu khống rồi bị hạ ngục trị tội, tịch biên tài sản. Tào Tuyết Cần phải theo gia đình rời Giang Nam về Bắc Kinh sinh sống, nhà họ Tào lâm vào cảnh sa sút nhanh chóng. Tào Tuyết Cần phải sống qua ngày trong những

ngày cay đắng nhất của đời mình với nghèo khổ, sống nhờ vào việc bán tranh và sự giúp đỡ của bạn bè. Sau này vì ốm đau không tiện chạy chữa, lại thêm đau khổ trước cái chết của đứa con trai duy nhất, ông mất để lại người vợ góa bụa với cảnh sống túng quẫn và 80 hồi “Thạch đầu kí” còn dang dở. Đám tang của ông chỉ có vài ba người bạn thương tình tống táng qua quýt. Đó là kết cục bi thảm của một tiểu thuyết gia thiên tài vào bậc nhất của nhân loại.

Tào Tuyết Cần sáng tác nhiều thơ nhưng đến nay đều bị thất truyền hết.

Ông sáng tác trước hết là để

giải tỏa chính nỗi lòng tích tụ

bao tâm sự

chồng chất của mình về con người và thời đại. Thế giới quan trong sáng tác của ông thấm đẫm màu sắc hư vô và bi quan, đó là sự chiêm nghiệm sâu sắc về bản chất hủ bại của giai cấp phong kiến thống trị đã làm nảy sinh ra những mâu thuẫn xã hội đương thời.

Về con người của Tào Tuyết Cần, chúng ta chỉ

biết rất sơ

lược: ông là

người thông minh, nhạy cảm, đa tài, đa nghệ, giỏi thơ, khéo vẽ, thích rượu,

cao ngạo, phóng túng và có thái độ

ngạo nghễ

trước các thế

lực đen tối

trong xã hội. Tuy lớn lên trong cảnh bần cùng, suy sụp của gia đình nhưng ông vẫn giữ được phẩm chất thanh cao, coi khinh những kẻ xu thời phụ thế, chán ghét con đường công danh phú quý.

Cao Ngạc (1738 – 1815?) tự là Lan Thự, Vân Sĩ, biệt hiệu là Hồng lâu

ngoại sĩ (người ở ngoài lầu hồng – không dính dáng đến công danh phú

quý). Tổ tiên của ông ở huyện Thiết Lĩnh, tỉnh Liêu Linh.Ông xuất thân từ tầng lớp quý tộc, là người Hán nhập tịch Mãn Châu như Tào Tuyết Cần.

Thuở nhỏ Cao Ngạc thích đi du ngoạn cảnh đẹp quê hương. Ông là người chăm học, thuộc lòng kinh sử, giỏi văn bát cổ, thi, từ, tiểu thuyết, hí khúc, hội họa.Cao Ngạc muốn tiến thân lập công danh bằng con đường khoa cử. Năm Càn Long thứ 53 (1788), Cao Ngạc thi Hương đỗ cử nhân. Năm Càn Long thứ 60, ông thi đỗ tiến sĩ tam giáp và lần lượt làm chức Lịch quan nội

các trung thư, Nội các thị

độc. Năm Gia Khánh thứ

6 (1801), ông đảm

nhiệm việc khảo xét kì thi Hương và khảo thí quan lại. Đến năm 1809, ông làm chức Giang Nam đạo Giám sát ngự sử. Đến năm 1813, ông được thăng chức làm Hình khoa cấp sự trung. Trong thời gian làm quan ông được xem là người tiết tháo, cẩn trọng, chính sự cần mẫn, tài năng đứng đầu, hiểu biết sâu rộng.Cao Ngạc làm quan dưới hai triều Càn Long – Gia Khánh, trải qua lắm hoạn nạn trên quan trường, về già lại sống cuộc sống thanh bần.

Ngoài 40 hồi viết tiếp “Hồng lâu mộng”, Cao Ngạc còn có nhiều tác phẩm khác: “Thanh sử cảo – Văn uyển nhị” có chép “Lan thự thi sao”, “Dương Tông Hy trong Bát kỳ văn kinh” có chép “Cao Lan Thự tập”, đến nay đều bị

thất truyền. Hiện nay còn “Lan Thự thập nghệ” (bản thảo), “Lại trị tập

yếu” cùng tập thơ “Nguyệt tiểu sơn phòng di cảo” và tập từ Hương từ ­ Lộc tồn thảo”.

4.1.1.2. Quá trình hình thành tác phẩm “Hồng lâu mộng”

“Nghiên


“Hồng lâu mộng” (Giấc mộng lầu son) là bộ tiểu thuyết vĩ đại xuất hiện

vào thời Kiền Long (cuối thế kỉ XVIII). Đó là tác phẩm có ý nghĩa cắm

mốc một giai đoạn lịch sử

văn học vì dung lượng đồ

sộ, sự

thành thục

trong phương pháp sáng tác, vì âm vang của sự chuyển mình lịch sử mà nó mang đến cho người đọc.

“Hồng lâu mộng” gồm 120 hồi, 80 hồi đầu do Tào Tuyết Cần viết. Viết chưa xong, ông từ trần. Cao Ngạc viết tiếp 40 hồi sau.

Sống trong xã hội nhiều thăng trầm, gia đình lại lâm vào cảnh sa sút, ngẫm

trải đủ cay đắng cuộc đời bi lụy đã thôi thúc Tào Tuyết Cần sáng tác

“Hồng lâu mộng”. Ông đã dồn toàn bộ trí lực trong mười năm cuối đời để viết tác phẩm và qua năm lần sửa chữa thì đã hoàn thành được 80 hồi và dự thảo 40 hồi còn lại.

Khi Tào Tuyết Cần mất tác phẩm vẫn chưa hoàn thành và không được công bố. Mười lăm năm sau, bạn của ông là Cao Ngạc đã dụng tâm nghiên

cứu tỉ

mỉ nguyên ý và căn cứ

trên nền tảng ý tưởng, văn phong của Tào

Tuyết Cần mà viết tiếp 40 hồi sau cho phù hợp. Tác phẩm hoàn thành, Cao Ngạc đổi tên “Thạch đầu kí” thành “Hồng lâu mộng” (Giấc mộng lầu hồng), vừa phù hợp với nội dung tác phẩm, vừa mang dáng dấp của tâm hồn ông vì biệt hiệu của ông là Hồng Lâu Ngoại Sĩ.

Giới nghiên cứu nhận định bốn mươi hồi sau của Cao Ngạc không thể sánh

với tám mươi hồi đầu của Tào Tuyết Cần về mặt nội dung và tư tưởng

nghệ

thuật. Nhưng đóng góp to lớn của Cao ngạc là đã bảo vệ

được sự

nhất quán về tư tưởng tình cảm, phong thái dung mạo, ngôn ngữ, tính cách của hơn 400 nhân vật mà Tào Tuyết Cần xây dựng, hoàn thành kết cấu bi kịch của toàn bộ tác phẩm, khiến cho câu chuyện trở nên hoàn chỉnh, nhờ vậy mà “Hồng lâu mộng” nhanh chóng được lưu truyền rộng rãi.

4.1.2. Đặc điểm của tiểu thuyết Minh – Thanh

4.1.2.1. Đặc điểm chung

Tiểu thuyết Minh – Thanh kế thừa trực tiếp những thành tựu của thoại bản Tống Nguyên, thuộc loại hình văn hóa Trung cổ gắn với sự xuất hiện của tầng lớp thị dân và các đô thị.

Thông thường tiểu thuyết Minh – Thanh được chia ra làm năm loại: tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết nghĩa hiệp, tiểu thuyết thần ma, tiểu thuyết nhân tình thế thái và đoản thiên tiểu thuyết (truyện ngắn). Tiểu thuyết lịch sử lấy đề tài trong lịch sử rồi diễn nghĩa ra. “Tam quốc diễn nghĩa” là tác phẩm tiêu biểu cho loại này. Tiểu thuyết nghĩa hiệp viết về anh hùng hảo hán, trọng nghĩa khinh tài, xả thân vì nghĩa mà “Thủy hử” là tác phẩm tiêu biểu. Tiểu thuyết thần ma lấy đề tài trong thần thoại hoặc trong truyện tôn giáo mà “Tây du kí” là thành công hơn cả.Tiểu thuyết nhân tình thế thái lấy đề tài trong cuộc sống đời thường, nói đến những tình cảm thông thường, những con người bình thường. Loại này có thể xem “Hồng lâu mộng” là thành tựu tiêu biểu, ngoài ra còn có “Kim Bình Mai”, “Chuyện làng nho”

cũng là những tác phẩm có giá trị. Loại cuối cùng là đoản thiên tiểu thuyết, có hàng ngàn tác phẩm nhưng “Liêu trai chí dị” là nổi tiếng hơn cả.

Tiểu thuyết Minh – Thanh được viết theo kết cấu chương hồi. Để hấp dẫn người nghe, đến đoạn cao trào, gay cấn, thì người kể dừng lại với lời mời: “Mun biết sthra sao, xin xem hi sau phân gii”. Trong tác phẩm có

sự giao thoa giữa biên niên sử

và truyện kể

dân gian, sự

xâm nhập của

truyện hoang đường vào sử sách. Ví dụ trong ba tác phẩm “Tam quốc diễn

nghĩa”, “Thủy hử”, “Tây du kí” đều được đúc kết trên cơ sở ba mảng

chuyện kể về lịch sử, về hảo hán anh hùng, về chuyện nhà Phật.

Trong tiểu thuyết Minh – Thanh, cốt truyện rất được coi trọng.Câu chuyện cơ bản được kể theo thời gian một chiều, cái gì xảy ra trước kể trước, cái gì xảy ra sau kể sau.Thông qua ngôn ngữ và hành động tác giả khắc họa tính cách nhân vật.Đây là một trong những đặc điểm nổi bật của tiểu thuyết Minh – Thanh. Tinh thần hào hiệp, trượng nghĩa cứu người của Lỗ

Trí Thâm trong “Thủy hử” được thể hiện rất rõ nét thông qua ba cú đấm

đánh chết Trần Quan Tây Trịnh Đồ. Hoặc tấm lòng cương trực của Trương Phi được thể hiện bằng hành động Trương Phi đánh đến gãy mười cành liễu vào mông của tên mọt dân hại nước Đốc Bưu.

Khi xây dựng hình tượng nhân vật, tiểu thuyết Minh – Thanh rất chú trọng vận dụng thủ pháp ước lệ và công thức để miêu tả, lí giải.Nhưng để hình tượng nhân vật trở nên sinh động thì ngoài việc phải biết lựa chọn những chi tiết tiêu biểu, giàu ý nghĩa tượng trưngcòn đòi hỏi tác giả phải sắp xếp các chi tiết đó thành một hệ thống hoàn chỉnh nhằm làm nổi bật đặc trưng tính cách nhân vật.Biểu hiện tấm lòng trung nghĩa của Quan Vũ có đâu chỉ vài lời giới thiệu sơ sài, mà là hàng loạt những câu chuyện sinh động.

Thơ

và từ

là hai thể

loại được dùng phổ

biến trong tiểu thuyết Minh –

Thanh.Những câu thơ, bài từ đặt ở đầu chương hoặc cuối hồi nhằm giới thiệu hay tổng kết, có khi là sự giải thích hoặc là sự mỉa mai, phê phán, rút

Xem tất cả 64 trang.

Ngày đăng: 29/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí