PHỤ LỤC
Phụ lục 1
TÌNH HÌNH NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VI PHẠM PHÁP LUẬT
Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
1. Khái quát
Trong những năm gần đây, vơi
sư nghiêp
đôi
mơi
trong đương lôí ,
chu
trương, chính sach cua
Đang va
Nha
nươć . Đất nươc
ta đa co
nhưng
bước phát triển nhanh, manh me,
rõ rêṭ , thu đươc
nhiêu
thanh tưu
đang kê.
Thực tế cho thây, nhiêu
thanh phố lơn, nhiêu
khu công nghiêp, khu du lich,
đời sông ngươi
dân được cải thiện và nâng cao, viêc
đô thị hoa
nhanh, đăc
biệt la mơ
rông hợp tác quốc tê
trong qua
trinh hôi
nhâp
đang tao
đa phat
triên, là điều kiện quan trong để tiên
han
h công nghiêp
hoa, hiên
đai
hoa
đât
nước. Tuy nhiên, thì tin
h hinh tôi
pham
vân
ngày một gia tăng, trưc
tiêp đe
dọa đến trật tự an toàn xã hội, kìm ham
sự phat
triên
nên
kinh tế đât
nươc
cung như xâm pham
đên
quyên
cua
công dân. Trong đo,
đăc
biêt
là tôi
pham
do ngươi
chưa thanh niên thực hiên. Cac
em ở độ tuôi
chưa thanh niên nên
nhận thức còn chưa đây
đu,
dễ bị kẻ xâu
lôi keo, dụ dô,
có trương hơp vi
hoan canh gia đình
khó khăn cun
g dân
đên
pham
tôị . Đây không chỉ là trach
nhiêm
cua
cơ quan tư phap
hin
h sự, mà là trách nhiêm
của toàn xã hội trong việc
giao
duc
, giup
đỡ cac
em măc
lôi
có cơ hôi
sưa
chưa
, lam
lai
cuôc
đơì . Trong
những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính
sách và pháp luật nhằm bảo đảm sự
phát triển toàn diện của trẻ
em và
NCTN. Chính phủ, các Bộ, ban, ngành và chính quyền các cấp đã đề ra
nhiều chương trình, kế hoạch cũng như áp dụng nhiều biện pháp để tăng cường bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội, đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp luật nói chung trong đó có vi phạm pháp luật của NCTN nói riêng. Tuy nhiên, tình hình NCTN vi phạm pháp luật và phạm tội ở nước ta
hiện nay vẫn có xu hướng gia tăng và diễn biến phức tạp. Đặc biệt có một
bộ phận thanh thiếu niên đã tham gia vào các băng nhóm tội phạm có tổ
chức, phạm tội có sử dụng bạo lực với tính chất côn đồ hung hãn; thực hiện các hành vi giết người, cướp của, chống người thi hành công vụ, bảo kê, đâm thuê, chém mướn gây ra hậu quả hết sức nghiêm trọng.
Trước hết, trong bối cảnh chung tình hình tội phạm vẫn diễn biến
theo chiều hướng phức tạp và chưa giảm về số lượng nhưng tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội ngày càng nghiêm trọng, tội phạm do NCTN thực hiện cũng diễn biến theo xu thế đó. Theo số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, trong 7 năm (2004 - 2010) trên toàn quốc đã khởi tố hình sự 48.291 NCTN phạm tội trong tổng số 639.387 người phạm tội nói chung. Trung bình mỗi năm có 6.898 NCTN phạm tội, chiếm khoảng 7% tổng số người phạm tội bị khởi tố.
Bảng 3.1: Số liệu NCTN bị khởi tố giai đoạn 2004 - 2011
Năm | Tổng số | Tỷ lệ % so với năm 2004 | |
1 | 2004 | 5.138 | 100 |
2 | 2005 | 6.420 | 124,9 |
3 | 2006 | 7.818 | 152,1 |
4 | 2007 | 8.394 | 163,3 |
5 | 2008 | 8.821 | 171,6 |
6 | 2009 | 5.271 | 102,5 |
7 | 2010 | 6.429 | 125,1 |
8 | 2011 | 6.601 | 128,5 |
Có thể bạn quan tâm!
- Thành Lập Các Đơn Vị Nghiệp Vụ Chuyên Về Giải Quyết Án Liên Quan Đến Người Chưa Thành Niên Ở Cơ Quan Điều Tra, Viện Kiểm Sát
- Bergeron, Julie (2003), Những Mô Hình Tốt Về Tư Pháp Người Chưa Thành Niên Ở Khu Vực Đông Á Và Thái Bình Dương, Unicef Eapro.
- Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc (1990), Bản Quy Tắc Của Liên Hợp
- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam - 24
Xem toàn bộ 195 trang tài liệu này.
Nguồn: Cục Thống kê tội phạm và Công nghệ thông tin, VKSNDTC.
Theo số liệu trên, từ năm 2004 đến năm 2008 số NCTN bị khởi tố hình sự tăng 71%, bình quân mỗi năm tăng 17,75%. Nếu so sánh với tỷ lệ tăng dân số hàng năm của nước ta là 1,8% thì diễn biến tội phạm NCTN tăng gần gấp 10 lần so với tốc độ tăng dân số.
Về cơ cấu tội phạm của NCTN, qua nghiên cứu và phân tích số
liệu có 48.291 NCTN bị khởi tố hình sự trong 8 năm (từ 2004 - 2011) cho thấy họ hầu hết phạm các tội danh đã được quy định trong các chương của BLHS. Tuy nhiên, do đặc điểm về tâm - sinh lý, về lứa tuổi, về năng lực chịu TNHS, cũng như tính chất của từng loại tội phạm cho nên trong cơ cấu các loại tội phạm do NCTN gây ra không thấy xuất hiện hoặc ít xuất hiện, hoặc có thì thường NCTN chỉ là đồng phạm như các tội phạm
về xâm phạm an ninh quốc gia, các tội phạm về
chức vụ, về
tham
nhũng, một số tội xâm phạm hoạt động tư pháp, một số tội phạm kinh tế, các loại tội phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân… Chúng ta có
thể
khái quát về cơ
cấu tội phạm do NCTN thực hiện từ
năm 2004 -
2011 thông qua bảng số liệu dưới đây:
Bảng 3.2: Cơ cấu tội phạm do NCTN thực hiện giai đoạn 2004 - 2011
Mã chương | Nhóm tội danh | Tỷ lệ % so với tổng số NCTN phạm tội | |
1 | 18 | Về ma túy | 2,84 |
2 | 12 | Xâm phạm tính mạng, sức khỏe… | 21,64 |
3 | 13 | Xâm phạm quyền tự do, dân chủ… | 0,068 |
4 | 19 | Xâm phạm về an toàn công cộng… | 9,9 |
5 | 20 | Xâm phạm trật tự quản lý hành chính | 0,67 |
6 | 14 | Xâm phạm sở hữu | 64,20 |
7 | 16 | Xâm phạm trật tự quản lý kinh tế | 0,34 |
8 | 22 | Xâm phạm hoạt động tư pháp | 0,22 |
Nguồn: Cục Thống kê tội phạm và Công nghệ thông tin, VKSNDTC.
Theo thống kê thì hành vi vi phạm PLHS của NCTN tập trung nhiều nhất vào các nhóm tội xâm phạm sở hữu; xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự con người, một số tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Trong đó, NCTN phạm vào các tội xâm phạm về sở hữu
chiếm tỷ lệ cao nhất, 64,2 %, mà phổ biến nhất là trộm cắp tài sản chiếm: 40%, cướp tài sản chiếm: 7%, cưỡng đoạt tài sản chiếm: 5% trong tổng số tội phạm do NCTN thực hiện. Nguyên nhân các đối tượng phạm nhóm tội này chủ yếu là do đua đòi, ăn chơi, thiếu sự quản lý, giáo dục của gia đình và bị kẻ xấu lợi dụng, rủ rê tham gia.
Ví dụ: Khoảng 20h30’ ngày 30/5/2006, ba đối tượng, Nguyễn Minh Đức - 1991, Nguyễn Văn Phú - 1991, Nguyễn Như Khánh - 1992 đã chuẩn
bị dao, gậy đến khu vực tỉnh Ủy Bắc Ninh thuộc đường Kinh Dương
Vương đe dọa một đôi trai gái đang ngồi tâm sự và cướp đi 01 chiếc xe
máy nhãn hiệu LISOHAKA, BKS: 99F8-2530. Cơ quan CSĐT Công an
thành phố Bắc Ninh đã khởi tố, bắt tạm giam đối với Đức và Phú để đề
nghị
truy tố. Đồng thời lập hồ sơ
đưa đối tượng Nguyễn Như Khánh đi
trường giáo dưỡng. Nguyên nhân dẫn đến vụ cướp trên là do các em ham chơi điện tử, vì không có tiền nên đã bàn bạc và rủ nhau đi cướp tài sản để lấy tiền chơi điện tử.
Bên cạnh đó, NCTN phạm nhóm tội xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm cũng chiếm tỷ lệ cao như tội cố ý gây thương
tích chiếm 13%, tội giết người chiếm 1,4% trong tổng số tội phạm do
NCTN thực hiện. Nguyên nhân các đối tượng phạm nhóm tội này là do sự bồng bột, nông nổi của tuổi mới lớn, thiếu suy nghĩ, giáo dục của gia đình, một số đối tượng chơi bời, bỏ học hay gây gổ, trả đũa vì thù tức, thích thể hiện cái tôi, đôi khi cũng là do người đã thành niên dụ dỗ, lôi kéo. Ví dụ:
Nguyễn Cầu Tuyền, sinh ngày 18/01/1990 ở Kim Sơn, Gia Lâm, Hà Nội
chuẩn bị sẵn dao nhọn. Vào hồi 19h ngày 04/10/2006, Tuyền thuê xe ôm
của anh Nguyễn Đình Sơn về đến xã Xuân Lâm, Thuận Thành, Bắc Ninh đã đâm vào gáy anh Sơn. Khi thấy anh Sơn chưa chết hẳn còn bóp cổ anh đến chết để cướp xe máy.
Ví dụ khác: Khoảng 22h30’ ngày 19/5/2005 Nguyễn Quang Lâm
sinh năm 1988 và Nguyễn Mậu Quang sinh năm 1988 đều ở Vũ Dương -
Bồng Lai - Quế Võ - Bắc Ninh đã có hành vi cưỡng hiếp chị Nguyễn Thị Sang Sn 1985 ở cùng thôn tại bờ mương thôn Vũ Dương - Bồng Lai - Quế Võ - Bắc Ninh.
Về địa bàn hoạt động, các vụ vi phạm pháp luật và phạm tội do NCTN thực hiện không chỉ xảy ra ở các thành phố, thị xã mà còn xảy ra ở các vùng nông thôn, kể cả vùng sâu, vùng xa. Tuy nhiên, đánh giá một cách tổng thể trên phạm vi toàn quốc thì tại các thành phố lớn, nơi kinh tế phát triển mạnh thu hút nhiều lực lượng lao động, nhiều thành phần xã hội sinh sống, thì tỷ lệ NCTN vi phạm pháp luật và phạm tội chiếm tỷ lệ cao hơn và có chiều hướng tăng nhanh hơn. Theo thống kê của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, năm 2004 có 385 NCTN bị đưa ra xét xử, đến năm 2008 con số này là gần 700 người (tỷ lệ tăng gần 100% sau 4 năm). Tại các thành phố lớn khác như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng thì tỷ lệ này cũng cao hơn và tăng nhanh hơn các tỉnh khác.
Từ thực trạng nêu trên, chúng ta có thể thấy trong những năm gần
đây, số vụ
và số
lượng NCTN vi phạm pháp luật và phạm tội có chiều
hướng ngày càng gia tăng. Tính chất, mức độ vi phạm pháp luật, đặc biệt là tội phạm hình sự do NCTN thực hiện ngày càng nghiêm trọng. Nếu như những năm 2000 trở về trước, NCTN thường thực hiện các hành vi trộm cắp, gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích không gây nguy hại lớn, thì những năm gần đây tính chất, mức độ của tội phạm lại nguy hiểm hơn như: hình thành các băng nhóm tội phạm có tổ chức, có cơ cấu chặt chẽ. Sự gia tăng về số lượng, mức độ vi phạm pháp luật của NCTN có sự khác nhau giữa các địa phương, theo đó tỷ lệ tăng nhiều nhất chủ yếu tập trung ở các thành phố.
2. Đặc điểm tội phạm NCTN ở Việt Nam thời gian qua
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể khái quát tình hình tội
phạm của NCTN phạm tội trong thời gian qua có những đặc điểm sau:
Một là, tội phạm do NCTN gây ra có xu hướng gia tăng cả về số lượng vụ việc, số người phạm tội. Tính chất hành vi phạm tội cũng càng ngày càng nghiêm trọng, đặc biệt là các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người, các tội xâm phạm sở hữu, các tội xâm phạm về ma túy.
Hai là, khuynh hướng phạm tội có sử dụng bạo lực gia tăng làm cho tình hình trật tự, an toàn xã hội thêm phức tạp. Các tội liên quan đến…. tệ nạn xã hội như tội phạm về ma túy, tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ… cũng xuất hiện có tính phổ biến hơn trong cơ cấu NCTN phạm tội.
Ba là, tội phạm của NCTN gây ra tập trung chủ
yếu
ở các thành
phố, thị xã, các nơi giao lưu buôn bán, các tỉnh có cửa khẩu. Đặc biệt ở các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng…tội phạm của NCTN gây ra ở đây nhiều nhất so với các địa bàn khác.
Bốn là, tội phạm của NCTN gây ra đa số là trong độ tuổi từ 16 đến dưới 18 tuổi, chiếm khoảng 87 %, số từ 14 đến dưới 16 tuổi chiếm 13%; số nữ chiếm 2,89%. Số NCTN là đồng phạm với người đã thành niên trong các vụ phạm tội chiếm khoảng 26% trong tổng số NCTN phạm tội bị khởi tố….
Năm là, trình độ văn hóa của những NCTN phạm tội rất thấp. Một số học hết cấp I, cấp II, thậm chí có không ít trường hợp không biết chữ. Trong đó, số đã bỏ học chiếm đến 47 % trong tổng số NCTN phạm tội.
Phụ lục 2
MỘT SỐ VỤ ÁN ĐIỂN HÌNH
Vụ án thứ nhất: Vụ án Lê Khả Tấn, phạm tội “Cố ý gây thương
tích” (khi phạm tội, Tấn mới 17 tuổi).
Đặng Công Hùng, Nguyễn Quang Vinh, Trần Văn Minh đều là những trẻ em nghịch ngợm, khi đi ngang qua nhà Tấn, thấy cây mận của nhà Tấn, Hùng leo lên hàng rào để hái trộm thì em của Tấn là Lê Thị Anh Thư nhìn thấy và yêu cầu xuống. Hùng, Vinh, Minh đã chửi và xúc phạm Thư. Thư chạy vào nhà bảo với Tấn. Tấn chạy ra và hai bên đã cãi nhau, Tấn rượt đuổi. Hùng, Vinh, Minh sau khi chạy đã quay lại thách đố Tấn ra ngoài đánh nhau. Tấn chạy ra ngoài đường nhặt một cục gạch vỡ, ném trúng mặt Hùng, rồi đến dùng tay chân đánh vào mặt và người Hùng gây thương tích, tỷ lệ 22%. Với hành vi như trên, Tấn bị Viện kiểm sát quận Thanh Khê truy tố về tội “cố ý gây thương tích” theo khoản 2 Điều 104 BLHS với khung hình phạt từ 9 tháng đến 12 tháng tù giam. Tại phiên tòa sơ thẩm, Tòa án nhân dân quận Thanh Khê đã áp dụng khoản 2, Điều 104; điểm b, đ, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 60; Điều 69; Điều 74 BLHS và khoản 4 Điều 227 BLTTHS xử phạt Lê Khả Tấn 12 tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 24 tháng kể từ ngày tuyên án và tuyên trả tự do ngay tại phiên tòa, giao Tấn cho chính quyền địa phương nơi bị cáo thường trú để giám sát, giáo dục.
Trong vụ án này, khi phạm tội Tấn mới 17 tuổi. Nguyên nhân mà
Tấn phạm tội có một phần do lỗi của phía người bị hại (bị hại có 3 người được xác định là những trẻ em hư, sau khi trèo hái trộm quả còn có hành vi
xúc phạm em gái Tấn và rủ Tấn đánh nhau). Mặc dù Tấn là một người
ngoan ngoãn, hiền lành, chưa vi phạm pháp luật lần nào, nhưng do vẫn còn trong độ tuổi chưa thành niên nên nhận thức vẫn chưa đầy đủ về hành vi của mình. Hành vi của Tấn nhặt cục gạch ném Hùng hoàn toàn là bột phát.
Việc Viện kiểm sát đề nghị áp dụng khung hình phạt tù giam là chưa phù hợp, chưa bảo vệ được lợi ích của Tấn. Tuy nhiên, Tòa án đã áp dụng các
quy định đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, tạo điều kiện
thuận lợi cho bị cáo hòa nhập công động nên Tòa án đã cho bị cáo được hưởng án treo.
Vụ án thứ
hai: Vụ
án Trương Công Định và đồng bọn phạm tội
“Trộm cắp tài sản”.
Trương Công Định (khi phạm tội chưa đủ 18 tuổi, bị cáo bị bắt tạm giam 3 tháng) rủ Nghiêm Quốc Lộc (18 tuổi; trình độ văn hóa: 7/12; không nghề nghiệp, bố đã chết, có 1 tiền sự về hành vi “trộm cắp tài sản”, bị cáo bị bắt tạm giam 3 tháng) đến khu vực tổ 37 phường Hòa Khê, Thanh Khê, Đà Nẵng để trộm cắp tài sản. Định và Lộc phát hiện một chiếc xe đạp (trị giá 600.000đồng) của anh Trần Công Hưng để trước hiên nhà. Lộc ở ngoài canh chừng để Định lẻn vào ăn trộm xe đạp. Khi đi được một đoạn thì bị nhân dân phát hiện và bắt quả tang. Định là NCTN và không có tiền án, tiền sự, nhưng do chơi thân với Lộc là người đã có 1 tiền sự về hành vi trộm cắp nên ít nhiều Định cũng bị ảnh hưởng những đức tính xấu từ Lộc. Sau
khi xảy ra sự
việc, bị
cáo Định đã biết ăn năn hối cải, tài sản có giá trị
không lớn và đã thu hồi được để trả cho người bị hại, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên không cần phải cách lý bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà giao về chính quyền địa phương quản lý giáo dục, cũng đủ tác dụng bị cáo. Với các lẽ trên, Hội đồng xét xử đã tuyên phạt Định 6 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng. Giao bị cáo Định về chính quyền địa phương nơi bị cáo thường trú để giám sát, giáo dục.
Trong vụ án này, cả hai bị cáo đều có hoàn cảnh gia đình giống nhau, bố mất sớm, chỉ còn mẹ. Chúng tôi đã gặp và phỏng vấn trực tiếp bị cáo Định và mẹ của bị cáo Định. Gia đình của bị cáo có hoàn cảnh kinh tế đặc
biệt khó khăn, mẹ bị cáo cũng không có việc làm ổn định. Mọi sinh hoạt
của gia đình đều trông chờ vào việc đi bán vé số dạo của mẹ. Do đặc thù