Quy Định Về Chủ Thể Được Bảo Đảm Thực Hiện Quyền Được Suy Đoán


vô tội

3.1.2.2. Quy định về chủ thể được bảo đảm thực hiện quyền được suy đoán


Quyền được suy đoán vô tội là quyền cơ bản của công dân. Trong tố tụng

hình sự, quyền được suy đoán vô tội không chỉ thuộc về người bị buộc tội mà còn là quyền của những người bị nghi phạm tội đang là đối tượng áp dụng của những biện pháp tố tụng. Nói cách khác, sự buộc tội không phải là điều kiện làm phát sinh quyền được suy đoán vô tội, để có sự đảm bảo của nguyên tắc suy đoán vô tội không cần phải chứng minh là mình đang bị buộc tội.

Trước khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được ban hành, đã có những quan điểm khác nhau về đối tượng bị buộc tội, thời điểm bắt đầu và kết thúc của sự buộc tội. Quan điểm thứ nhất cho rằng, đối tượng bị buộc tội chỉ có thể là bị can, bị cáo. Những người tham gia tố tụng khác không thể là đối tượng bị buộc tội. Buộc tội chỉ tồn tại trước khi bản án của toà án có hiệu lực pháp luật [57, tr.13]. Quan điểm thứ hai cho rằng, sự buộc tội xuất hiện cả khi chưa có quyết định khởi tố bị can trong trường hợp có người bị tạm giữ. Sự buộc tội còn tồn tại cho tới khi người bị kết án chấp hành xong hình phạt hoặc được áp dụng các biện pháp miễn hình phạt (toàn bộ) hoặc được đại xá hay ân xá [18, tr.27].

Như vậy, dù người bị tạm giữ có được coi là người bị buộc tội hay chưa thì họ và bị can, bị cáo vẫn có quyền được suy đoán vô tội. Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ. Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự. Bị cáo là người đã bị toà án quyết định đưa ra xét xử. Những người này đều có quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa. Biện pháp tạm giữ, tạm giam chỉ được áp dụng khi có đầy đủ căn cứ do pháp luật quy định. Chế độ tạm giữ, tạm giam hoàn toàn khác với chế độ đối với người đang chấp hành hình phạt tù. Ngược lại, dù người bị kết án có còn là người bị buộc tội hay không thì quyền được suy đoán vô tội về nguyên tắc cũng chấm dứt khi bản án kết tội của toà án có hiệu lực pháp luật.

Suy đoán vô tội gắn liền với buộc tội, tồn tại song song với buộc tội. Khởi nguồn của nguyên tắc suy đoán vô tội được xuất phát từ sự thiếu bình đẳng giữa thế mạnh và thế yếu của một bên là sự buộc tội được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có

thẩm quyền và bên kia là sự bào chữa của người bị buộc tội. Do đó, người bị buộc tội một mặt được đảm bảo quyền bào chữa, quyền không phải chứng minh sự vô tội của mình, mặt khác được đảm bảo không bị đối xử như người có tội. Điều đó cho thấy, nguyên tắc suy đoán vô tội không chỉ liên quan tới vấn đề chứng minh mà còn liên quan tới vấn đề đối xử. Chính vì vậy, trong tố tụng hình sự, quyền được suy đoán vô tội không chỉ thuộc về người bị buộc tội, mà còn là quyền của những người bị nghi phạm tội bị áp dụng những biện pháp hạn chế quyền và lợi ích hợp pháp. Nhóm người thứ hai này tuy chưa có quyền bào chữa nhưng đã có quyền không bị đối xử như người có tội. Ví dụ: Người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang; người phạm tội tự thú; người bị khám xét do có mặt tại nơi khám xét và có căn cứ khẳng định người đó giấu trong người đồ vật, tài liệu cần thu giữ; chưa phải là người bị buộc tội. Vào thời điểm tự thú, bị bắt, hay khám xét chưa có văn bản tố tụng nào buộc tội đối với họ liên quan đến việc tự thú, bị bắt, hay khám xét. Mặc dù vậy, họ vẫn có quyền được suy đoán vô tội. Người thực hiện việc bắt, khám xét, lấy lời khai; cơ quan tiếp nhận người bị bắt; cơ quan, tổ chức tiếp nhận người phạm tội tự thú không được đối xử với họ như một người có tội. Các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế áp dụng đối với họ không phải là hình phạt [25].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 192 trang tài liệu này.

Chính vì vậy, khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được ban hành, đã có quy định khẳng định:“Người bị buộc tội gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo” [52, Đ.4]. “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” [52, Đ.13]. Với quy định này, người bị buộc tội luôn luôn được bảo đảm quyền suy đoán vô tội.

Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền, nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Buộc tội phải dựa trên chứng cứ. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát và bản án kết tội của Tòa án phải dựa trên các chứng cứ khẳng định chắc chắn về lỗi của người bị buộc tội trong việc thực hiện tội phạm. Mọi nghi ngờ về lỗi của bị can, bị cáo nếu không thể loại trừ được theo trình tự, thủ tục luật định và khi chưa có sự thống nhất trong việc giải thích, áp dụng các quy phạm pháp luật đều phải được giải quyết theo hướng có lợi cho họ.

Bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay - 11

Thực tiễn hoạt động tư pháp cho thấy rằng, oan sai thường xảy ra chủ yếu là trong quá trình chứng minh vụ án, đặc biệt, trong một số vụ án, việc giải quyết phụ thuộc chủ yếu vào tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra, dẫn đến việc giải quyết chưa chính xác, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là pháp luật về tố tụng hình sự cần được thực hiện theo hướng từ bỏ quy định về việc công nhận giá trị chứng minh của chứng cứ. Triệt để thực hiện nguyên tắc: mọi chứng cứ đều có giá trị ngang nhau, bất kể chúng được đưa vào hồ sơ “một cách chính thức” hay không. Bị can, bị cáo, người bào chữa được quyền tìm kiếm chứng cứ bằng bất cứ phương thức hợp pháp nào. Chứng cứ và chứng minh chỉ có giá trị sau khi được trình ra và lập luận tại phiên tòa. Điều đó có nghĩa là, phải song song thừa nhận những chứng cứ có trong hồ sơ và ngoài hồ sơ vụ án. Xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa phải đảm bảo sự bình đẳng của các bên và khả năng của các bên trong việc trình bày quan điểm, chứng cứ của mình.

Nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập trên, thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” [49, Đ.103]. Trên nền tảng nguyên tắc hiến định, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung nguyên tắc “Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” [52, Đ.26]. Đây là quy định mới, căn cứ pháp lý quan trọng để đảm bảo quyền con người, quyền công dân và quyền được suy đoán vô tội theo hiến định, thể hiện cụ thể ở các nội dung sau: “Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, điều tra viên, kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rò sự thật khách quan của vụ án”.

Như vậy, có thể thấy, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định rò mối quan hệ, vị trí giữa những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rò sự thật khách quan của vụ án là bình đẳng, đây là tiền đề quan trọng để các chủ thể thực hiện hoạt động tranh tụng bảo vệ quan điểm, quyền lợi của mình khi tham gia tố tụng. Chỉ trên cơ sở bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ thì

hoạt động tranh tụng mới đảm bảo chất lượng, tính thực thi. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho những chủ thể tranh tụng là kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và hoạt động tranh tụng tiến hành trên cơ sở dân chủ, bình đẳng. Tại phiên tòa, các chủ thể tranh tụng bình đẳng với nhau trên cơ sở đưa ra quan điểm, tài liệu, chứng cứ, phân tích đánh giá để lập luận, đối đáp bảo vệ quan điểm của mình.

Một trong những hình thức cơ bản nhất để đảm bảo thực hiện quyền con người là quyền được suy đoán vô tội trong suốt các giai đoạn tố tụng, được pháp luật tố tụng hình sự quy định cụ thể, đó chính là bảo đảm để người bị buộc tội có quyền tự bảo vệ mình trước bất kỳ sự xâm phạm nào. Trong quan hệ pháp luật hình sự, mối quan hệ giữa một bên là người bị tình nghi phạm tội hay người bị buộc tội và một bên là đại diện các cơ quan tiến hành tố tụng, có nghĩa vụ chứng minh hành vi phạm tội của người bị tình nghi là có hành vi phạm tội. Trong mối quan hệ này, “người bị buộc tội là phạm một tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho tới khi tội của người đó được chứng minh theo pháp luật” [35, Đ.14]. Để chống lại xu hướng áp đặt của các cơ quan tiến hành tố tụng, pháp luật đã dành cho người bị buộc tội quyền tự bảo vệ mình, chứng minh mình vô tội trước các cáo buộc của các cơ quan tiến hành tố tụng, đó chính là quyền bào chữa.

Quyền bào chữa là một quyền đặc trưng, điển hình của quá trình tố tụng hình sự công bằng của một nhà nước tôn trọng tự do, dân chủ của công dân. Xâm phạm đến quyền bào chữa của người bị buộc tội thì các quyền tự do, dân chủ khác được pháp luật ghi nhận cũng sẽ bị triệt tiêu. Quyền bào chữa đã được chính thức ghi nhận trong Tuyên ngôn về nhân quyền của Liên Hợp Quốc: “Bị cáo về một tội hình sự được suy đoán là vô tội cho đến khi có đủ bằng chứng phạm pháp trong một phiên xử công khai với đầy đủ bảo đảm cần thiết cho quyền biện hộ” [37, Đ.11]. Như vậy, một bản án công minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật chỉ đạt được khi quyền bào chữa được bảo đảm. Do đó, khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa là quyền con người. Trên tinh thần đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã thể hiện bước tiến bộ trong quy định về quyền bào chữa và khẳng định: “Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng

chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa” [52. Đ.72]. Bản thân của luật sư, trợ giúp viên pháp lý hay chủ thể khác do pháp luật quy định không thể mặc nhiên phát sinh quyền bào chữa trong vụ án hình sự nếu không tồn tại chủ thể bị buộc tội. Do đó, không thể coi luật sư, trợ giúp pháp lý và những chủ thể khác là chủ thể của quyền bào chữa. “Quyền bào chữa chỉ thuộc về bị can, bị cáo chứ không thuộc về đối tượng nào khác và quyền này chỉ giới hạn trong việc bác bỏ một phần hoặc toàn bộ lời buộc tội hoặc giảm

nhẹ trách nhiệm cho bị can, bị cáo”3. Trong tố tụng hình sự ở Việt Nam, cần khẳng

định quyền bào chữa luôn song hành với quyền được suy đoán vô tội. Nội dung của quyền bào chữa không phải là chống lại sự buộc tội, mà phải khẳng định quyền bào chữa là quyền để chống lại sự vi phạm pháp luật của các chủ thể tiến hành tố tụng hay quyền buộc những chủ thể tiến hành tố tụng phải thực hiện đúng quy định của pháp luật.

Tóm lại, pháp luật tố tụng hình sự là một phạm trù lịch sử chứ không phải là phạm trù bất biến. So với những quy định trước đây, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã mở rộng phạm vi chủ thể có quyền được suy đoán vô tội. Những chủ thể này không chỉ là bị can, bị cáo như trong quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 hay người bị tạm giữ, bị can và bị cáo như trong quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 mà nó còn bao gồm cả người bị bắt. Những quy định này được thể hiện cụ thể tại điểm d. Khoản 1 Điều 4. Theo đó, người bị buộc tội gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Quyền và nghĩa vụ của những người này được quy định tại các Điều 58, 59, 60 và 61 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp là người đã có lệnh giữ của người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; Người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang là người bị bắt khi đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm mà bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt; Người bị bắt theo quyết định truy nã là người bị bắt khi bị truy tìm bởi quyết định của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ; Bị can là người


3Xem nguồn: http://tks.edu.vn.

hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự; Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị tòa án quyết định đưa ra xét xử [84. Tr.135-143].

Những quy định về bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội ngày càng được hoàn thiện đáp ứng yêu cầu của nhà nước pháp quyền là phải xây dựng cho được hệ thống pháp luật thống nhất, chặt chẽ và đồng bộ bảo vệ quyền con người. Pháp luật tố tụng hình sự cũng cần đáp ứng yêu cầu đó. Bởi lẽ, tố tụng hình sự là lĩnh vực hoạt động đặc biệt của nhà nước, ở đó, xuất hiện quan hệ bất bình đẳng giữa một bên là các cơ quan tiến hành tố tụng với sự hậu thuẫn của quyền lực nhà nước và bên kia yếu thế hơn là những người bị buộc tội. Cũng từ đó, nguy cơ xâm phạm đến quyền con người là cao nhất và hậu quả cũng nặng nề nhất và đòi hỏi bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự cũng là yêu cầu bức thiết nhất [131]. Pháp luật tố tụng hình sự đáp ứng các đòi hỏi của nhà nước pháp quyền, trước hết thể hiện ở chỗ hệ thống nguyên tắc của nó trong đó có nguyên tắc suy đoán vô tội với tư cách là những quan điểm chỉ đạo làm nền tảng và xuyên suốt các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự, hoạt động tố tụng hình sự cần được thể hiện đầy đủ, toàn diện và đồng bộ. Nguyên tắc suy đoán vô tội một mặt cần ghi nhận những giá trị chung của nhân loại mặt khác cần có sự cụ thể hóa trong kiện hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.

3.1.2.3. Quy định về các biện pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán

vô tội

Nhằm bảo đảm thực hiện và hướng tới mục tiêu của nguyên tắc suy đoán vô

tội, Bộ luật tố tụng hình sự quy định, các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng cần phải áp dụng và chấp hành nghiêm chỉnh các biện pháp sau đây:

Một là, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng và chấp hành nghiêm chỉnh các biện pháp tố tụng theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự để chứng minh tội phạm.

Nội dung này nhấn mạnh yêu cầu về mặt thủ tục pháp lý, là dấu hiệu quan trọng nhất của chế độ pháp quyền, theo đó, thủ tục công khai, minh bạch là đòi hỏi số một cho việc bảo vệ quyền con người chống lại sự truy bức tùy tiện. Theo tinh thần đó, tại nhiều điều luật cụ thể, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã nhấn mạnh các yêu cầu nghiêm ngặt về trình tự, thủ tục, coi đó cũng là một nguyên tắc của tố tụng hình sự. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 xác định: “Mọi hoạt động tố tụng

hình sự phải được thực hiện theo quy định của Bộ luật này. Không được giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định” [52, Đ.7].

Trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng cũng được đặt ra ngay từ quy định về khởi tố và xử lý vụ án hình sự: “Khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm khởi tố vụ án, áp dụng các biện pháp do Bộ luật này quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội, pháp nhân phạm tội. Không được khởi tố vụ án ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định” [52. Đ.18]. Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải tuân thủ pháp luật khi tiến hành hoạt động điều tra theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Mọi hoạt động điều tra phải tôn trọng sự thật, tiến hành khách quan, toàn diện và đầy đủ; phát hiện nhanh chóng, chính xác mọi hành vi phạm tội, làm rò chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án [52, Đ.19]. Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, quyết định việc buộc tội, phát hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội [52, Đ.20].

Khi tiến hành tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết [52, Đ.8]. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, việc bắt, tạm giữ, tạm giam người phải theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Nghiêm

cấm tra tấn, bức cung, dùng nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, tính mạng, sức khỏe của con người [52, Đ.10]. Trong giai đoạn điều tra, truy tố, nếu không chứng minh được bị can đã thực hiện hành tội phạm mà thời hạn điều tra đã hết, thì cơ quan có thẩm quyền phải ra quyết định đình chỉ vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 [52. Đ.230, Đ.248].

Ngoài ra, Bộ luật Tố tụng hình sự cũng còn có quy định khác giúp các cơ quan tiến hành tố tụng cho việc định tội danh một cách chính xác như: quy định về chứng minh và chứng cứ (Chương VI), quy định về các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế (Chương VII), đồng thời còn quy định về trình tự thủ tục khởi tố (Chương IX), điều tra (Chương X), truy tố (Chương XVIII)...

Hai là, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp hợp pháp mà Bộ luật tố tụng hình sự quy định để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ

Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rò chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội [52, Đ.15].

Khách quan là dựa vào sự thật trước mắt, tồn tại bên ngoài không phụ thuộc vào ý thức, ý muốn con người. Đảm bảo xem xét vụ án tình tiết vụ án một cách khách quan thì cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật vụ án một cách khách quan, toàn diện không bị chi phối bới ý chí của người khác và không xem xét vụ án một cách phiến diện. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi quá trình chứng minh tội phạm phải dựa trên những chứng cứ xác thực, không còn nghi ngờ. Mọi sự nghi ngờ đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đều phải được kiểm tra, chứng minh làm rò. Nếu không chứng minh làm rò được sự nghi ngờ thì sự nghi ngờ đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo phải được giải thích theo hướng có lợi cho họ.

Xem tất cả 192 trang.

Ngày đăng: 07/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí