Atk Định Hoá Khẳng Định Rõ Hơn Tầm Nhìn Chiến Lược Của Trung Ương Đảng Và Chủ Tịch Hồ Chí Minh.

KẾT LUẬN


1. ATK Định Hoá khẳng định rõ hơn tầm nhìn chiến lược của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vừa mới ra đời đã phải đứng trước một tình thế cực kì khó khăn. Dù đã có hơn một năm bảo vệ và xây dựng, nhưng khó khăn đối với Nhà nước Cách mạng non trẻ vẫn còn chồng chất, nhiều vấn đề xã hội chưa giải quyết được bao nhiêu; nội bộ nhân dân chưa phải đã hoàn toàn thuộc về chế độ mới; trong nước không phải nơi nào cũng an toàn.

Trong khi đó, chiến sự ngày càng lan rộng. Lực lượng địch mạnh hơn hẳn ta. Chúng đã lần lượt chiếm được những vùng rộng lớn, bao gồm các thành phố, các đường giao quan trọng. Nhưng ở Việt Bắc lúc bấy giờ, nhiều nơi vẫn chưa có chiến sự lan tới. Riêng Chiến khu I, "có bốn tỉnh: Phúc, Thái, Bắc, Cao là khu an toàn mà là khu căn cứ địa cho toàn quốc, chưa có địch trực tiếp"[8, tr.14].

Những năm đầu toàn quốc kháng chiến (1946 - 1950), lực lượng kháng chiến của nhân dân ta nằm trong tình trạng bị đế quốc bao vây bốn bề. Hai nước Lào và Campuchia đã bị thực dân Pháp xâm lược và thống trị trở lại. Trung Quốc lúc đó tuy vẫn do quân Tưởng kiểm soát, nhưng là nước vốn có quan hệ mật thiết với cách mạng nước ta. Hơn nữa, phong trào cách mạng của nhân dân Trung Quốc do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Việc quét sạch quân Tưởng ra khỏi lục địa Trung Quốc chỉ còn là vấn đề thời gian không xa.

Sau khi cách mạng Trung Quốc thành công (10 - 1949), nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời, đặc biệt từ sau chiến thắng Biên giới Thu - Đông

1950 của quân và dân ta, căn cứ địa Việt Bắc thoát khỏi tình trạng bị địch bao vây phong toả. Quan hệ quốc tế của lực lượng kháng chiến được mở rộng, tạo thế đứng vững chắc cho ATK Trung ương. Cũng từ lúc này, Việc Bắc là cửa ngõ tiếp nhận sự viện trợ quốc tế. Do đó, việc lựa chọn và xây dựng ATK Trung ương ở Việt Bắc trong hoàn cảnh lịch sử lúc đó, xét về phương diện đối ngoại, thông thương quốc tế, rõ ràng là có lợi hơn bất cứ nơi nào khác trên đất nước ta.

Định Hoá cùng với Chợ Đồn, Sơn Dương và Yên Sơn là những huyện tiếp giáp nhau, nằm sâu trong căn cứ địa Việt Bắc. Đây là một khu vực vừa kín đáo, vừa an toàn, vừa dễ dàng xuống miền trung du Bắc Bộ, lại thuận lợi liên lạc với quốc tế.

Trong đó, Định Hoá " là một bộ phận của khu giải phóng cũ", vừa có địa lợi vừa có nhân hoà. Đây là nơi dựa vào chân núi Hồng, tiến có thể công, lui có thể giữ, có thể toả đi khắp vùng biên giới, xuống đồng bằng, giao thông liên lạc tương đối thuận tiện để giữ vững mối liên hệ giữa Trung ương và các địa phương, nơi có cơ sở chính trị vững chắc, đồng bào luôn hướng về cách mạng, tin tưởng tuyệt đối ở Đảng và Chính phủ, kinh tế có thể tự cung tự cấp" [10, tr.15].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 87 trang tài liệu này.

Trải qua thời kì đấu tranh giành chính quyền, trình độ giác ngộ chính trị và khả năng cách mạng của nhân dân các dân tộc được nâng lên. Đồng bào nơi đây một lòng gắn bó với Đảng, với cách mạng, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ cuộc đời độc lập, tự do. Trước khi bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc, các đoàn thể quần chúng ở huyện Định Hoá đã hình thành, thu hút đông đảo nhân dân tham gia. Chính quyền các cấp được củng cố, lực lượng vũ trang và bán vũ trang đã được phát triển ở nhiều nơi. Đồng bào các dân tộc Việt Bắc nói chung, huyện Định Hoá nói riêng, có đủ

điều kiện chủ quan và khách quan để trở thành nơi đứng chân an toàn cho các cơ quan đầu não trong suốt thời kì kháng chiến.

An toàn khu định hoá trong căn cứ địa kháng chiến việt bắc - 8

Việt Bắc nói chung và huyện Định Hoá nói riêng có địa thế hiểm trở, có lòng dân cách mạng kiên cường. Với vị trí chiến lược tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã sớm nhìn thấy các thế mạnh nhân hoà và địa lợi của khu vực này, nên đã chọn làm nơi xây dựng ATK của Trung ương. Chọn ATK Trung ương ở Việt Bắc nói chung và Định Hoá nói riêng chính là chọn nơi an toàn nhất, chắc chắn nhất cho cơ quan đầu não tồn tại và lãnh đạo cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi. Sự thất bại hoàn toàn của thực dân Pháp trong cuộc tấn công lên căn cứ Việt Bắc Thu - Đông 1947 hòng chụp bắt cơ quan đầu não kháng chiến là thực tế khẳng định việc lựa chọn và xây dựng ATK ở khu vực này là hoàn toàn xác đáng.

Sự ra đời của ATK Định Hoá trong căn cứ địa Việt Bắc là kết quả của một sự lựa chọn đúng đắn, sáng suốt, dự kiến được xu thế phát triển của tình hình lúc đó.

2. ATK Định Hoá trong căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc là một sáng tạo của Đảng ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp.

Trong khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng, vấn đề bảo toàn cơ quan lãnh đạo đầu não là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng. Muốn vậy, cần phải chọn một nơi thực sự an toàn cho cơ quan đầu não đứng chân để lãnh đạo phong trào cách mạng toàn quốc. Trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc, ông cha ta đã từng biết lập căn cứ địa làm nơi đặt bản doanh, chiêu mộ binh sĩ, phát triển lực lượng.

Ngay từ thế kỷ VI, Triệu Quang Phục dựa vào đầm Dạ Trạch (Khoái Châu, Hưng Yên) làm nơi đứng chân, tiến hành chiến tranh du kích đánh đuổi quân Lương, giải phóng đất nước. Trong thế kỉ XV, Lê Lợi - Nguyễn Trãi đã

lấy vùng đất Lam Sơn ( Thọ Xuân, Thanh Hoá ) làm căn cứ địa, chiêu mộ nghĩa quân, phát triển lực lượng, đánh đuổi giặc Minh, giành lại độc lập cho dân tộc." Căn cứ Lam Sơn đã mang đầy đủ các nhân tố: Địa - quân sự, Địa - chính trị, Địa - kinh tế, Địa - văn hoá" [10, tr.57].

Tới thời Cận đại, phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta liên tiếp nổ ra. Việc xây dựng căn cứ địa trở thành một nhân tố căn bản không thể thiếu của các cuộc khởi nghĩa chống Pháp.

Khởi nghĩa Trương Định có căn cứ Tân An - Gò Công. Nguyễn Trung Trực lập căn cứ ở Hòn Chông. Phạm Bành và Đinh Công Tráng xây dựng căn cứ phòng thủ ở Ba Đình. Nguyễn Thiện Thuật xây dựng căn cứ ở Bãi Sậy. Phan Đình Phùng dựa vào địa thế hiểm trở của núi rừng các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình để xây dựng thành bốn căn cứ lớn, trong đó căn cứ Vụ Quang (phía Tây Hương Khê) là căn cứ lớn nhất của nghĩa quân. Đặc biệt, với việc thành lập căn cứ ở rừng núi vùng Yên Thế rộng lớn để tiến hành chiến tranh du kích, cuộc khởi nghĩa do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo đã kéo dài trong 30 năm, gây cho thực dân Pháp nhiều tổn thất và nỗi kinh hoàng.

Dù ở mức độ khác nhau, nhưng việc xây dựng căn cứ địa trong các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp thời cận đại đều là sự kế thừa và phát huy truyền thống căn cứ địa Lam Sơn, coi trọng cả bốn nhân tố, trong đó "Địa - quân sự" và "Địa - chính trị" được đặt lên hàng đầu. Tuy vậy, việc xây dựng ATK trong căn cứ địa là chưa có. Ngay trong khởi nghĩa Lam Sơn, khởi nghĩa Yên Thế, mặc dù diễn ra trong thời gian dài và có căn cứ rộng lớn, cũng chưa bao giờ ông cha ta nghĩ đến xây dựng an toàn khu trong căn cứ địa" [10, tr.58]. Trong trường hợp đó, căn cứ địa cũng là ATK, yếu tố " Địa - quân sự" và "Địa - chính trị" đều được coi trọng ngang nhau.

Trong điều kiện lịch sử mới, lại phải đối chọi với một kẻ thù có nhiều kinh nghiệm cai trị và đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta, có trình độ tác chiến và trang bị kỹ thuật vượt trội chúng ta một khoảng cách có tính thời đại, từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã sáng tạo một phương thức mới độc đáo để bảo toàn cơ quan đầu não, đó là xây dựng các ATK.

Trong cuộc vận động Cách mạng tháng Tám, chúng ta có cả một hệ thống căn cứ địa rộng khắp đất nước. Từ hai căn cứ địa ban đầu là Bắc Sơn - Võ Nhai, Cao Bằng, đến tháng 6 - 1945, chúng ta đã thành lập được Khu Giải phóng rộng lớn gồm 6 tỉnh (Cao - Bắc - Lạng - Thái - Tuyên - Hà). Nhiều nơi cũng lập được các chiến khu.

Cùng với hệ thống căn cứ địa, trong Cách mạng tháng Tám, tại Bắc Bộ chúng ta đã xây dựng được hai Khu an toàn (ATK) của Trung ương và Xứ uỷ Bắc Kỳ, nhưng lại nằm trên những địa bàn riêng biệt, bên ngoài khu vực căn cứ địa.

ATK I bao gồm hơn một nửa vùng ngoại thành Hà Nội, nằm hai bên bờ sông Hồng. Đây là nơi đóng các cơ quan Trung ương Đảng và các cơ quan của Xứ uỷ Bắc Kỳ trong thời kỳ chuẩn bị giành chính quyền. ATK II được xây dựng trên vùng đất rộng hai bên bờ sông Cầu, bao gồm hầu hết các xã trong huyện Hiệp Hoà (tỉnh Bắc Giang), một số xã thuộc hai huyện Phổ Yên và Phú Bình (tỉnh Thái Nguyên). Đây là nơi đóng và hoạt động của Trung ương Đảng và Xứ uỷ Bắc kỳ trong những năm 1943 - 1945.

Do nằm trên những địa bàn riêng biệt, thậm chí cách xa nhau, giữa các khu căn cứ địa với các ATK có mối liên hệ thông qua những đường dây liên lạc bí mật. Như vậy, các ATK trong Cách mạng tháng Tám không có “vành đai” căn cứ địa bên ngoài che chắn, bảo vệ. Do đó, tính chất an toàn của các ATK bị hạn chế, dễ bị địch tấn công.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Việt Bắc là căn cứ địa chủ yếu của cả nước. Trong căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc, một số huyện thuộc ba

tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Kạn được chọn làm địa bàn đặt cá cơ quan đầu não. Như vậy, ATK Trung ương được xây dựng ngay trong lòng căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc. ATK Trung ương không tồn tại độc lập, tách biệt với căn cứ địa, mà là hạt nhân bên trong căn cứ địa. Căn cứ địa Việt Bắc là "vành đai" bên ngoài che chắn, bảo vệ cho ATK.Tại Trung tâm An toàn khu Trung ương trong căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc, Định Hoá là ATK tuyệt mật, " là nơi bảo đảm an toàn cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và cơ quan đầu não của Đảng và Chính phủ về sống và chỉ đạo sự nghiệp kháng chiến kiến quốc của toàn dân ta. Cũng chính tại nơi đây những quyết sách lớn của Đảng về hai nhiệm vụ chiến lược đã ra đời dẫn quân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác" [10, tr.16].

Sáng tạo của Đảng không những ở cách thức xây dựng, mà còn ở cả nội dung xây dựng ATK. Nếu ATK Trung ương trong Cách mạng tháng Tám chú trọng xây dựng cơ sở chính trị, thì ATK Định Hoá trong căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc được xây dựng toàn diện, bao gồm cả chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá, giáo dục, y tế...Nhờ đó, Định Hoá trong căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc thực sự trở thành khu vực an toàn của các cơ quan đầu não trong suốt thời kỳ toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp.

3. Sự tồn tại vững chắc và vai trò to lớn của ATK Định Hoá trong suốt những năm kháng chiến chống thực dân Pháp là một minh chứng cho tinh thần và khả năng cách mạng của nhân dân các dân tộc Định Hoá.

Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, huyện Định Hoá cùng với các huyện Sơn Dương, Yên Sơn (Tuyên Quang), Chợ Đồn (Bắc Kạn) đã vinh dự được Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn làm Trung tâm ATK trong căn cứ địa Việt Bắc. Định Hoá trở thành nơi đứng chân

thường xuyên, lâu dài của các cơ quan đầu não, nhiều kho tàng, nhiều nhà máy quan trọng của Trung ương Đảng, Chính phủ và Quân đội.

Nhận thức rõ vị trí của quê hương trong căn cứ địa Việt Băc, nhân dân các dân tộc Định Hoá phát huy truyền thống yêu nước, đã hăng hái tham gia cách mạng, tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang địa phương phối hợp với bộ đội chủ lực chiến đấu đẩy lùi nhiều đợt càn quét của địch, bảo vệ an toàn tuyệt đối Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, linh hồn của cuộc kháng chiến. Trong chiến đấu, nhiều cán bộ, chiến sĩ bộ đội địa phương và dân quân, du kích đã nêu cao tấm gương kiên quyết hy sinh để bảo vệ an toàn cơ quan đầu não kháng chiến. Hàng vạn người, từ cụ già đến em nhỏ ở tất cả 24 xã của Định Hoá đều là tai, mắt bảo vệ ATK, làm tốt công tác bảo mật, phòng gian, thực hiện triệt để khẩu hiệu "Ba không", làm vô hiệu hoá hoàn toàn các hoạt động trinh sát, do thám, phá hoại của kẻ địch. Các lực lượng vũ trang nhân dân huyện Định Hoá đã làm tốt công tác tuần tra, canh gác, bảo vệ trật tự, an ninh trên địa bàn, kịp thời phát hiện, ngăn chặn và trừng trị bọn Việt gian, gián điệp, biệt kích phá hoại ATK. Do đó, mọi hoạt động, sự đi lại của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Chính phủ hoàn toàn được giữ kín không phải vài ba tháng, mà nhiều năm cho đến kháng chiến thắng lợi.

Là chủ nhân một huyện miền núi với nền kinh tế tự cung, tự cấp, nhân dân các dân tộc Định Hoá đã nỗ lực khắc phục mọi khó khăn, đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm, thực hành tiết kiệm, vừa đảm bảo cuộc sống của mình, vừa cung cấp cho các cơ quan kháng chiến đóng trên địa bàn huyện và làm tròn nghĩa vụ chi viện cho tiền tuyến.

Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, đồng bào các dân tộc huyện Định Hoá đã đóng góp cho kháng chiến hàng ngàn tấn thóc và ủng hộ các cơ quan Trung ương hàng vạn tàu lá cọ, hàng vạn tấn củi cho xưởng quân

giới để sản xuất vũ khí, hàng vạn cây tre, gỗ để làm nhà cho các cơ quan. Nhiều hộ gia đình đã sẵn sàng nhường nhà cho bộ đội ở, chăm sóc, nuôi dưỡng thương binh...Nhờ có sự giúp đỡ về mọi mặt và bảo vệ an toàn của quân và dân Định Hoá, các cơ quan đầu não kháng chiến, các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng, Chính phủ và Quân đội có điều kiện thuận lợi để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng chiến, kiến quốc của dân tộc đi đến thắng lợi.

Có thể nói, trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Pháp, quân và dân Định Hoá đã phát huy cao độ truyền thống yêu nước, tinh thần và khả năng cách mạng to lớn của mình, làm tròn vai trò của một ATK Trung ương trong căn cứ địa Việt Bắc. Sự tồn tại vững chắc của ATK Định Hoá trước những cuộc tấn công, càn quét, lùng sục của kẻ thù trong Thu - Đông 1947 và trong những năm tháng còn lại của cuộc kháng chiến chống Pháp là một minh chứng cho tinh thần và khả năng cách mạng của nhân dân các dân tộc huyện Định Hoá.

4. Thành công của việc xây dựng ATK Trung ương ở Định Hoá trong những năm kháng chiến chống Pháp cho thấy sự cần thiết phải dựa vào dân, xây dựng căn cứ, hậu phương vững chắc trong lòng dân. Lấy dân làm gốc chính là quan điểm cơ bản trong quá trình xây dựng và bảo vệ ATK. Dựa vào dân, bám chắc vào dân được coi là một nguyên tắc, một điều kiện tiên quyết bảo đảm sự tồn tại vững chắc của ATK, bởi vì nhân dân sống ngay trong lòng căn cứ, là lực lượng chủ yếu trong quá trình xây dựng và bảo vệ ATK. Chính vì vậy, ngoài công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng trong nhân dân, phải hết sức coi trọng mối quan hệ đoàn kết chặt chẽ giữa cơ quan, đơn vị với nhân dân địa phương, nghiêm chỉnh thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và kỷ luật trong quan hệ với dân, quan tâm giúp đỡ một cách thiết thực đến việc tổ chức đời sống mọi mặt của nhân dân các dân tộc.

5. ATK Định Hoá - Trung tâm Thủ đô kháng chiến trong căn cứ địa Việt Bắc gắn liền với sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chính phủ, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày nay đã trở thành khu di tích đặc biệt quan trọng. Các di tích lịch sử thuộc ATK Định Hoá, cùng với hệ thống di tích thuộc " Chiến khu Việt Bắc" đã được Chính phủ đánh giá" là quần thể di tích quan trọng bậc nhất của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX".

Hệ thống di tích lịch sử cách mạng, kháng chiến thuộc ATK Định Hoá là di sản văn hoá quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là địa chỉ đỏ trong công tác giáo dục lịch sử, giáo dục truyền thống yêu nước và cách mạng cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Chính vì vậy, việc đầu tư phục hồi, bảo tồn và tôn tạo Khu Di tích lịch sử ATK Định Hoá là góp phần giữ gìn và phát huy giá trị các di sản văn hoá, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, phát huy tác dụng của Khu Di tích trong việc giáo dục truyền thống yêu nước cho nhân dân các dân tộc.

Trong những năm gần đây, Khu Di tích lịch sử ATK Định Hoá đã và đang được Nhà nước đầu tư, các Bộ, ngành Trung ương giúp đỡ, tôn tạo. Vùng trung tâm ATK Định Hoá đã được đầu tư phát triển kinh tế, xã hội, làm thay đổi diện mạo của vùng chiến khu xưa. Để Khu Di tích lịch sử ATK Định Hoá thực sự trở thành một Khu Di tích đặc biệt quan trọng, xứng đáng với vị thế của nó trong lịch sử cách mạng dân tộc, thu hút đông đảo đồng bào cả nước và bạn bè quốc tế tới tham quan du lịch thì bên cạnh việc đầu tư tôn tạo các di tích với quy mô lớn, cần có sự đầu tư chiều sâu theo mô hình " Cụm di tích lịch sử - du lịch - văn hoá".

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh (1995), Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp - Thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

2. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (2003), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, tập 1 (1936 - 1965), Công ty in Thái Nguyên.

3. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (2007), Bác Hồ với Thái Nguyên

- Thái Nguyên với Bác Hồ, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.

4. Ban chấp hành Huyện uỷ Định Hoá (2000), Lịch sử Đảng bộ huyện Định Hoá (1930 - 2000), Nhà máy in Quân đội.

5. Ban NCLSĐ Bắc Thái (1987), Bắc Thái trong căn cứ địa Việt Bắc, XN in Thái Nguyên.

6. Ban chỉ huy Quân sự tỉnh Thái Nguyên (2004), Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

7. Ban NCLSĐ Khu tự trị Việt Bắc (1970), Văn kiện Đảng bộ Liên khu Việt Bắc, tập 1.

8. Ban NCLSĐ Khu tự trị Việt Bắc (1970), Văn kiện Đảng bộ Kiên khu Việt Bắc, tập 2.

9. Ban Chỉ huy quân sự Huyện Định Hoá (2007), Huyện Định Hoá - Lịch sử kháng chiến chống xâm lược và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc (1945 - 2000), Công ty Cổ phần in Thái Nguyên.

10. Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ tỉnh Thái Nguyên (2004), Hồ Chí Minh với việc xây dựng ATK Định Hoá trong căn cứ địa Việt Bắc, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Công ty in Thái Nguyên.

11. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Bắc Thái (1990), Bắc Thái lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Nhà máy in Quân đội.

12. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Thái Nguyên (1998), Thái Nguyên trong chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Nhà máy in Quân đội.

13. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Thái Nguyên (1992), Thái Nguyên lịch sử đấu tranh cách mạng và kháng chiến chống Pháp (1941 - 1954), Xí nghiệp in Bắc Thái.

14. Bộ Tư lệnh Quân khu I (1990), Tổng kết chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quân sự của Liên khu Việt Bắc trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), tập 1, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

15. Bộ Tư lệnh Quân khu I (1991), Tổng kết chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quân sự của Liên khu Việt Bắc trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), tập 2, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

16. Bộ Tư lệnh Quân khu I (1991), Tổng kết chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quân sự của Liên khu Việt Bắc trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), tập 3, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

17. Bộ Tư lệnh Quân khu I (1991), Một số trận đánh trên chiến trường Việt Bắc (1945 - 1954), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

18. Bộ Quốc Phòng, Bộ Tư lệnh Quân khu I, Bộ Tư lệnh Quân khu II, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2008), Chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947 - Vai trò căn cứ địa và bước ngoặt của cuộc kháng chiến, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

19. Các báo cáo, văn kiện các kỳ Đại hội Đảng bộ huyện Định Hoá, lưu tại văn phòng Tỉnh uỷ Thái Nguyên và Văn phòng Huyện uỷ Định Hoá.

20. Các báo cáo của Uỷ ban hành chính huyện, của Ban Chỉ huy Huyện đội huyện Định Hoá, lưu tại Trung tâm Lưu trữ Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên.

21. Trường Chinh (1965), Kháng chiến nhất định thắng lợi, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

22. Các báo cáo của Ban chỉ huy Quân sự huyện Định Hoá, lưu tại Ban Chỉ huy Quân sự huyện Định Hoá và Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Thái Nguyên.

23. Đảng bộ huyện Định Hoá (1995), Định Hoá 50 năm đấu tranh xây dựng và trưởng thành, Kho lưu trữ Huyện uỷ huyện Định Hoá.

24. Đảng bộ huyện Định Hoá (1997), Lịch sử ATK Định Hoá trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954), Nhà máy in Quân đội.

25. Đảng bộ huyện Định Hoá (2001), Lịch sử Đảng bộ huyện Định Hoá (1930 - 2000), Nhà máy in Quân đội.

26. Đảng uỷ Thị trấn Chợ Chu (2001), Lịch sử Đảng bộ Thị trấn Chợ Chu (1946 - 2000), Xí nghiệp in Bắc Thái.

27. Đảng uỷ BCH Quân sự tỉnh Bắc Kạn (2001), Bắc Kạn lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

28. Trần Bá Đệ (2002), Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến nay (in lần thứ 3), Nxb Đại học Quốc Gia, Hà Nội.

29. Philip Đơvile (1993), Pari - Sài Gòn - Hà Nội, Nxb Hồ Chí Minh.

30. Võ Nguyên Giáp (1995), Chiến đấu trong vòng vây, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

31. Võ Nguyên Giáp (1977), Những chặng đường lịch sử, Nxb Văn học, Hà Nội.

32. Võ Nguyên Giáp (1991), Đường tới Điện Biên Phủ, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

33. Võ Nguyên Giáp (2001), Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 26/04/2022