Xây dựng hệ thống câu hỏi và bài tập một số chương trong phân tích lí hoá - 2

áp dụng các định luật, phương pháp xác định định lượng các chất … Nếu là bài tập thực nghiệm sẽ rèn các kỹ năng thực hành, góp phần vào việc giáo dục kỹ thuật tổng hợp cho người học.

- Rèn luyện khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiến đời sống, lao động sản xuất và bảo vệ môi trường.

- Rèn luyện kỹ năng sử dụng ngôn ngữ hóa học và các thao tác tư duy. Phát triển ở học sinh các năng lực tư duy logic, biện chứng, khái quát, độc lập, thông minh, sáng tạo.

- Rèn luyện đức tính chính xác, kiên nhẫn, trung thực và lòng say mê khoa học.

Có khả năng tổng hợp và khái quát hóa kiến thức:

Thông qua việc trả lời các câu hỏi và giải các bài tập trong nội dung học phần học tương ứng, người sinh viên sẽ tự khái quát hóa kiến thức một cách tốt nhất dưới sự cố vấn, chỉ đạo của người thầy.

Để hình thành cho sinh viên những khái quát đúng đắn, tiêu biểu cần đảm bảo các điểu kiện sau:

- Làm biến thiên hoặc mờ nhạt những dấu hiệu không bản chất của vật hay hiện tượng khảo sát, đồng thời giữ không đổi dấu hiệu bản chất.

- Chọn những dạng bài tập để đưa ra được sự biến thiên hợp lí nhất nêu bật được dấu hiệu bản chất và trừu tượng hóa dấu hiệu thứ yếu.

- Có thể sử dụng những cách biến thiên khác nhau có cùng một ý nghĩa tâm lí học, nhưng lại hiệu nghiệm. Qua đó thể hiện được sự mềm dẻo của tư duy.

- Phải cho người học tự mình phát biểu được thành lời nguyên tắc biến thiên và nêu đặc tính của những dấu hiệu không bản chất. Điều đó cũng chứng tỏ rằng sinh viên đã nhận thức được dấu hiệu bản chất. Ngoài việc bảo đảm những điều kiện trên đây, giáo viên cần tập luyện cho người học phát triển tư duy khái quát bằng những hình thức quen thuộc như lập dàn ý, xây dựng những kết luận và tóm tắt nội dung các bài, các chương.[26]

I.1.2 Phân loại bài tập và câu hỏi hóa học:

Dựa vào nội dung và hình thức thể hiện có thể phân loại bài tập hóa học thành 2 loại:

- Bài tập định tính.

- Bài tập định lượng.

Câu hỏi có thể phân loại thành:

- Câu hỏi tái hiện kiến thức

- Câu hỏi vận dụng kiến thức

- Câu hỏi suy lí, chứng minh.

* Bài tập định tính: Là các dạng bài tập có liên hệ với sự quan sát để mô tả, giải thích các hiện tượng hóa học. Các bài tập định tính cũng có rất nhiều các bài tập thực tiễn giúp học sinh giải quyết các vấn đề thực tiễn sinh động.

* Bài tập định lượng (bài toán hóa học): Là loại bài tập cần vận dụng kĩ năng toán học kết hợp với kĩ năng hóa học (định luật, nguyên lí, quy tắc,

…) để giải.

* Câu hỏi tái hiện kiến tức là dạng câu hỏi người học chỉ cần tái hiện trình bày lại những nội dung mà mình tiếp thu được.

* Câu hỏi vận dụng kiến thức là câu hỏi mà người học cần phải nghiên cứu kĩ phần kiến thức cơ sở lý thuyết, từ đó vận dụng linh hoạt trong khi nghiên cứu giải quyết bài toán.

* Câu hỏi suy lí, chứng minh là câu hỏi mà người học phải nắm vững lí thuyết, biết vận dụng các nội dung kiến thức có liên quan để giải quyết bài toán.[9]

I.1.3 Tác dụng của bài tập hóa học:

* Tác dụng trí dục:

- Bài tập hoá học có tác dụng làm chính xác, cũng như hiểu sâu hơn các khái niệm và định luật đã học.

- Giúp cho sinh viên năng động sáng tạo trong học tập, phát huy năng lực nhận thức và tư duy, tăng trí thông minh và là phương tiện để người học vươn tới đỉnh cao tri thức.

- Là con đường nối liền giữa kiến thức thực tế và lý thuyết tạo ra một thể hoàn chỉnh thống nhất biện chứng trong cả quá trình nghiên cứu. Đào sâu, mở rộng sự hiểu biết một cách sinh động, phong phú không làm nặng nề thêm khối lượng kiến thức cho người học. Chỉ có vận dụng kiến thức vào việc giải bài tập, sinh viên mới nắm kiến thức sâu sắc.

- Là phương tiện để ôn tập, củng cố, hệ thống hóa, kiểm tra đánh giá việc nắm bắt kiến thức một cách tốt nhất (chủ động, sáng tạo).

- Tạo điều kiện để phát triển tư duy cho người học: khi giải bài tập bắt buộc người học phải suy luận, quy nạp, diễn dịch hoặc các thao tác tư duy đều được vận dụng.

Trong thực tế học tập, có những vấn đề buộc người học phải đào sâu suy nghĩ mới hiểu được trọn vẹn. Thông thường khi giải một bài toán nên yêu cầu hoặc khuyến khích người học giải bằng nhiều cách - tìm ra cách giải ngắn nhất, hay nhất.

* Tác dụng giáo dục:

- Bài tập hóa học có tác dụng giáo dục tư tưởng cho học sinh, sinh viên vì thông qua giải bài tập rèn luyện cho HS, SV tính kiên nhẫn, trung thực trong học tập, tính sáng tạo khi xử lý và vận dụng trong các vấn đề học tập. Mặt khác, qua việc giải bài tập rèn luyện cho các em tính chính xác khoa học và nâng cao hứng thú học bộ môn.

- Các bài tập hóa học còn được sử dụng như một phương tiện nghiên cứu tài liệu mới, ngoài ra các bài có nội dung thực nghiệm có tác dụng rèn luyện tính tích cực, tự lực lĩnh hội tri thức và tính cẩn thận, tuân thủ triệt để quy định khoa học, chống tác phong luộm thuộm, vi phạm những nguyên tắc khoa học.[25]

I.1.4 Vận dụng kiến thức để giải bài tập:

Để giải bài tập người học phải biết vận dụng lý thuyết đã học ở nội dung các chương các bài, quá trình này thực chất đòi hỏi người học phải có một kĩ năng nhận thức và tư duy nhất định. Hoạt động nhận thức và phát triển tư duy của sinh viên trong quá trình dạy học hóa học.

Nhận thức là một trong ba mặt cơ bản của đời sống tâm lí con người (nhận thức, tình cảm, lí trí). Nó là tiền đề của hai mặt kia và đồng thời có mối liên hệ chặt chẽ với chúng và các hiện tượng tâm lí khác.

Tư duy là một quá trình tâm lí phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ bên trong có tính quy luật của sự vật hiện tượng trong hiện thực khách quan mà trước đó ta chưa biết.

Theo M.N.Sacđacop: “Tư duy là sự nhận thức khái quát gián tiếp các sự vật và hiện tượng trong những dấu hiệu, những thuộc tính chung và bản chất của chúng. Tư duy cũng là sự nhận thức sáng tạo những sự vật hiện tượng mới, riêng lẻ của hiện thực trên cơ sở những kiến thức khái quát hóa đã thu nhận được”.[9]

I.2 Dạy học chú trọng phương pháp tự học:

Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người trong đời sống xã hội, khác với động vật con người không chỉ tiêu thụ những gì có sẵn trong thiên nhiên mà chủ động tạo ra cơ sở vật chất cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của xã hội.


I.2.1 Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học:

Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học. Trong một xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh cùng với sự bùng nổ thông tin, khoa học, kỹ thuật, công nghệ phát triển với tốc độ cực kì nhanh chóng, chúng ta thực sự cần phải quan tâm dạy cho sinh viên phương pháp học tập, phương pháp nhận thức.

Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kỹ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi người thì kết quả học tập sẽ được nâng lên gấp bội. Vì vậy, với phương pháp dạy học ngày nay rất nhấn mạnh hoạt động tự học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động có sự hướng dẫn của người thầy. Bên cạnh đó việc học tập là suốt đời, người học không chỉ học trong nhà trường, mà còn học mọi lúc, mọi nơi, sau khi rời ghế nhà trường còn phải tiếp tục học tập để bổ sung cập nhật kiến thức.[10]

I.2.2 Học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh:

Trong phương pháp dạy học tích cực, người học là đối tượng của hoạt động dạy, nhưng đồng thời cũng là chủ thể của hoạt động học được cuốn vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, do đó mà sinh viên tự khám phá những điều mình chưa rõ chứ không phải tiếp thu những tri thức đã được giáo viên sắp đặt sẵn. Khi đặt vào những tình huống thực tế, người học trực tiếp quan sát, thảo luận, giải quyết vấn đề đặt ra theo những suy nghĩ riêng của mình, từ đó sinh viên vừa nắm kiến thức, vừa nắm phương pháp làm ra kiến thức mà không theo những khuôn mẫu sắn có. Với cách dạy học này, Thầy không chỉ đơn giản là truyền đạt tri thức mà sự dạy học phải giúp cho từng sinh viên biết hành động và tích cực tham gia các chương trình hành động cùng tập thể.[10]

I.2.3 Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác:

Khi trong một lớp học mà trình độ kiến thức, tư duy của sinh viên không đồng đều một cách tuyệt đối thì khi áp dụng phương pháp dạy học tích cực buộc phải chấp nhận sự phân hóa về cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là các bài học được thiết kế thành một chuỗi các hoạt động độc lập. Khi áp dụng phương pháp tích cực ở trình độ cao thì sự phân hóa càng lớn. Việc sử dụng các công nghệ thông tin trong nhà trường sẽ đáp ứng nhu cầu cá thể hóa hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi học sinh, sinh viên.

Tuy nhiên, trong học tập không phải mọi tri thức, kỹ năng, thái độ đều được hình thành bằng những hoạt động độc lập của mỗi cá nhân. Lớp học là một môi trường giao tiếp thầy - trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường chiếm lĩnh những nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người học được nâng mình lên một trình độ mới. Người học sẽ vận dụng vốn hiểu biết, kinh ngiệm sống của mỗi cá nhân và của cả tập thể lớp chứ không phải chỉ dựa trên vốn hiểu biết và kinh nghiệm sống của giáo viên.

Hình thức học tập theo nhóm không làm hạn chế sức mạnh, hứng thú học tập của mỗi cá nhân mà trái lại tạo đà mạnh mẽ tính tích cực, chủ động của mỗi cá nhân, giúp họ chuyển từ đối tượng giáo dục thành chủ thể giáo dục.[25]

I.3. Xu hướng phát triển của bài tập hóa học hiện nay:

Bài tập hóa học vừa là mục tiêu, vừa là mục đích, vừa là nội dung vừa là phương pháp dạy học hữu hiệu do vậy cần được quan tâm, chú trọng trong các bài học. Nó cung cấp cho học sinh không những kiến thức, niềm say mê bộ môn mà còn giúp người học con đường giành lấy kiến thức, là bước đệm cho quá trình nghiên cứu khoa học, hình thành và phát triển có hiệu quả trong hoạt động nhận thức của học sinh.

Bằng hệ thống bài tập sẽ thúc đẩy sự hiểu biết của sinh viên, sự vân dụng những hiểu biết vào thực tiễn, sẽ là yếu tố cơ bản của quá trình phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.

Xu hướng phát triển của bài tập hoá học hiện nay hướng đến rèn luyện khả năng vận dụng kiến thức, phát triển tư duy hoá học. Những bài tập có tính chất học thuộc trong các câu hỏi lý thuyết sẽ giảm dần mà được thay bằng các câu hỏi đòi hỏi sự tư duy, tìm tòi.

Dạy học “chú trọng rèn luyện phương pháp tự học” ở trường Đại học được xem là rất quan trọng và được nhiều trường coi trọng áp dụng. Ngoài

ra, trong thời gian gần đây, một số chiến lược đổi mới phương pháp dạy học được thử nghiệm đó là “dạy học hướng vào người học”, “hoạt động hóa người học”, “tiếp cận kiến tạo trong dạy học” …[6]


I.4. Cơ sở phân loại câu hỏi và bài tập căn cứ vào mức độ nhận thức và tư duy:

Vận dụng các quan điểm về việc phân loại mức độ nhận thức và tư duy của GS.Bloom và GS.Nguyễn Ngọc Quang, căn cứ vào thực tiễn dạy học ở Việt Nam, chúng tôi thấy việc kết hợp vận dụng hai quan điểm trên cho phù hợp là cần thiết.

Việc phân loại sắp xếp các câu hỏi và bài tập học phần phân tích lí hóa căn cứ vào các mức độ nhận thức và tư duy của quá trình lĩnh hội kiến thức kỹ năng kỹ xảo chúng tôi thấy có thể sắp xếp thành 4 dạng sau:


Dạng

bài

Năng lực nhận thức

Năng lực tư duy

Kỹ năng


I

Biết (nhớ lại những kiến thức đã học một cách máy móc và

nhắc lại)

Tư duy cụ thể

Bắt chước theo mẫu


II

Hiểu (tái hiện kiến thức, diễn giải kiến thức, mô tả kiến thức)

Tư duy logic (suy luận, phân tích, so sánh, nhận xét)

Phát huy sáng kiến (hoàn thành kỹ năng theo chỉ dẫn, không còn bắt chước máy

móc)


III

Vận dụng

Tư duy hệ thống (suy luận tương tự, tổng hợp, so sánh, khái quát

hóa)

Đổi mới (lặp lại kỹ năng nào đó một cách chính xác, nhịp nhàng)


IV

VËn dụng sáng tạo (phân tích, tổng hợp, đánh giá)

Tư duy trừu tượng (suy luận một cách sáng

tạo)

Sáng tạo (hoàn thành kỹ năng một cách dễ dàng có sáng tạo, đạt

tới trình độ cao)

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 167 trang tài liệu này.

Xây dựng hệ thống câu hỏi và bài tập một số chương trong phân tích lí hoá - 2


Việc sử dụng câu hỏi và bài tập trong dạy học đặc biệt là dạy học Đại học có tầm quan trọng đặc biệt. Đối với sinh viên đây là phương pháp học tập tích cực, hiệu quả và không có gì thay thế được, giúp cho sinh viên nắm vững kiến thức môn học, phát triển tư duy, hình thành khái niệm, khả năng ứng dụng hóa học vào thực tiễn, làm giảm nhẹ sự nặng nề căng thẳng của khối lượng kiến thức và gây hứng thú cho sinh viên trong học tập.

Xem tất cả 167 trang.

Ngày đăng: 29/08/2022